TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA NIỀM VUI TÌNH YÊU (P.17)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 789 | Cật nhập lần cuối: 3/29/2017 7:28:56 AM | RSS

CHƯƠNG VII

CỦNG CỐ VIỆC GIÁO DỤC CON CÁI

259. Cha mẹ luôn có ảnh hưởng trên sự phát triển về mặt tinh thần của con cái, về điều tốt cũng như điều xấu. Vì thế, việc tốt nhất là họ hãy đảm nhận trách nhiệm không thể né tránh này và thực hiện việc giáo dục cách ý thức, nhiệt thành, hữu lí và phù hợp. Vì chức trách giáo dục này của gia đình là rất quan trọng và trở nên rất phức tạp, nên tôi muốn dừng lại ở điểm này để xem xét cách đặc biệt.

Con cái của chúng ta đang ở đâu?

260. Gia đình không thể khước từ mình chính là nơi nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn con cái, cho dù cần phải tái tạo lại các phương pháp và tìm cho ra các nguồn lực mới. Cha mẹ cần phải dự tính xem mình muốn trao cho con cái những gì. Bởi thế cha mẹ không được tránh né tự hỏi xem ai là người đang quan tâm cung ứng cho chúng những trò giải trí và niềm vui, ai là kẻ đi vào phòng của bọn trẻ qua các màn hình TV hay máy điện tử, ai là người mà mình trao phó con cái để họ hướng dẫn chúng trong những thời gian rảnh rỗi. Chỉ cần chúng ta dành thời gian cho con cái, nói với chúng về những chuyện quan trọng một cách đơn giản với tâm tình trìu mến, và tạo ra những cơ hội lành mạnh để chiếm hết thời gian của chúng, như vậy sẽ giúp chúng tránh được khỏi bị xâm hại. Cảnh giác thì luôn luôn cần thiết. Bỏ bê con cái không bao giờ là điều hay. Cha mẹ phải hướng dẫn và chuẩn bị cho con cái, trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, để chúng biết đối phó với những hoàn cảnh mà chúng có thể gặp phải, chẳng hạn như các nguy cơ bị tấn công, lạm dụng hoặc nghiện ngập.

261. Tuy nhiên, lo lắng quá đến mức bị ám ảnh thì không phải là giáo dục, và chúng ta không thể kiểm soát hết mọi tình huống mà con mình có thể trải qua. Ở đây có thể ứng dụng nguyên tắc “thời gian thì quan trọng hơn không gian”[1]. Nói cách khác, điều quan trọng là tạo ra các qui trình hơn là kiểm soát các nơi chốn. Nếu một phụ huynh bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi việc làm của nó, thì đó chỉ là tìm cách kiểm soát về nơi chốn. Đó không phải là giáo dục con, không giúp con tăng trưởng, không chuẩn bị cho con đối đầu với những thách đố. Điều đáng quan tâm chủ yếu là tạo ra nơi con cái, với cả tình thương yêu, những tiến trình giúp trưởng thành sự tự do của con, chuẩn bị, triển nở toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thật. Chỉ như thế đứa con mới có được những yếu tố cần thiết để biết tự bảo vệ và hành động cách thông minh và khôn ngoan trong các hoàn cảnh khó khăn. Bởi vậy, câu hỏi quan trọng đặt ra không phải là biết con mình hiện đang ở đâu, lúc này nó đang ở với ai, theo nghĩa thể lí, nhưng là hiện giờ nó đang ở đâu theo nghĩa hiện sinh, nghĩa là nó đang đặt những xác tín, mục tiêu, ước muốn, dự tính cuộc đời mình ở đâu. Thế nên, những câu hỏi mà tôi muốn đặt ra với các bậc cha mẹ là: “Chúng ta có tìm hiểu con mình đang thực sự “ở đâu” trong hành trình đời sống của chúng không? Tâm hồn của chúng đang thực sự ở đâu, chúng ta có biết không? Và nhất là, chúng ta có muốn biết điều đó không?”[2].

262. Nếu trưởng thành chỉ là sự phát triển một cái gì đó vốn đã có sẵn trong mã di truyền, thì sẽ không có gì để làm. Sự khôn ngoan, khả năng phán đoán và lương tri không phụ thuộc vào các yếu tố tăng trưởng thuần túy về lượng, nhưng phụ thuộc cả một chuỗi các yếu tố tổng hợp trong thâm sâu tâm hồn con người; chính xác hơn, nằm ngay trong trung tâm của tự do con người. Hẳn nhiên, mỗi đứa con sẽ làm ta ngạc nhiên với các dự tính của chúng xuất phát từ tự do ấy, chúng phá vỡ cả những khuôn suy nghĩ của cha mẹ, và nếu điều đó có xảy đến thì cũng tốt. Giáo dục gồm cả nhiệm vụ giúp phát triển sự tự do có trách nhiệm, để tại các giao điểm của cuộc đời chúng biết lựa chọn với ý ngay lành và thông minh; đào tạo những người hiểu rõ rằng cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình là do mình định đoạt và sự tự do này là một quà tặng lớn lao.

Huấn luyện đạo đức cho con cái

263. Dẫu cha mẹ cần đến trường học để bảo đảm cho con cái mình có được một nền giáo dục cơ bản, nhưng họ không bao giờ có thể khoán trắng việc huấn luyện đạo đức cho con cái nơi một ai khác. Sự phát triển tình cảm và đạo đức của một con người đòi hỏi một kinh nghiệm cơ bản: tin rằng cha mẹ của mình là đáng tin cậy. Đó là một trách nhiệm trong giáo dục: với tình thương và gương sáng cha mẹ tạo sự tin tưởng nơi con cái, truyền cho chúng một lòng kính trọng trong yêu thương. Khi một đứa con nào đó không còn cảm thấy mình được quý yêu trước mặt cha mẹ, dù đó là do khuyết điểm của mình, hoặc nó không nhận thấy cha mẹ đang quan tâm thật sự đến nó, điều đó gây tổn thương sâu sắc và tạo nhiều nhiều khó khăn trên bước đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt này, tức là sự bỏ rơi do thiếu tình thương, sẽ gây ra một nỗi đau sâu sắc hơn là một sự sửa dạy nào đó có thể có do trẻ làm một hành động sai trái.

264. Nhiệm vụ của cha mẹ bao gồm cả việc giáo dục ý chí và phát triển những thói quen cũng như khuynh hướng tình cảm hướng thiện cho con cái. Điều đó hàm ý nói đến những cách cư xử tốt đẹp đáng để học tập và những khuynh hướng cần phát triển dẫn đến sự trưởng thành. Nhưng người ta luôn bàn đến một tiến trình khởi đi từ sự bất toàn đến sự viên mãn hơn. Ước muốn thích nghi với xã hội, hoặc thói quen từ bỏ được thỏa mãn ngay lập tức để thích ứng với một luật lệ và bảo đảm cho mình một cuộc chung sống tốt đẹp, tự nó đã là một giá trị khởi đầu cho tâm hồn hướng đến những giá trị cao hơn. Việc giáo dục đạo đức phải luôn được thực hiện bằng những phương pháp tích cực và đối thoại giáo dục liên quan đến sự nhạy cảm và ngôn ngữ riêng của con cái. Ngoài ra, việc giáo dục này phải được thực hiện theo cách quy nạp, sao cho đứa trẻ có thể tự mình khám phá được tầm quan trọng của các giá trị nhất định, các nguyên tắc và luật lệ, thay vì áp đặt cho nó những điều được xem như là những chân lí dứt khoát.

265. Để hành động tốt thì “phán đoán đúng” hoặc chỉ biết rõ những gì phải làm thôi cũng chưa đủ, cho dù đó là điều ưu tiên. Nhiều lúc chúng ta không nhất quán với những xác tín riêng của mình, ngay cả khi chúng chắc chắn. Ngay cả khi lương tâm nói cho ta về một phán đoán luân lí nhất định, thì những thứ khác hấp dẫn hơn có khi sẽ lôi cuốn mạnh hơn, nếu ta chưa đạt được tới mức sự thiện vốn được tâm trí nắm bắt đã bén rễ trong ta như một thiên hướng tình cảm thâm sâu, như ước muốn hướng thiện vượt trổi hơn những điều hấp dẫn kia và cho ta cảm thấy rằng sự thiện mà ta đã nhận biết cũng là sự thiện “cho chúng ta” tại đây và lúc này. Một sự giáo dục đạo đức hữu hiệu bao hàm việc cho người ta biết nên hành động tới mức nào thì tốt. Ngày nay, thường sẽ không đạt được hiệu quả khi ta yêu cầu một điều gì đó đòi hỏi cố gắng và hi sinh từ bỏ mà lại không cho thấy rõ ràng sự thiện mà người ta có thể đạt được.

266. Cần phải phát triển những thói quen. Ngay cả những thói quen mà trẻ đã đắc thủ có một vai trò tích cực, chúng giúp chuyển các giá trị quan trọng đã được nội tâm hóa thành những hành vi bên ngoài lành mạnh và bền vững. Một đứa bé có thể có tâm tính dễ hòa đồng và sẵn lòng đối xử tốt với người khác, nhưng nếu trong một thời gian lâu mà không được người lớn nhắc nhở, không quen nói những tiếng “làm ơn”, “xin lỗi”, “cám ơn”, thì tâm hướng tốt lành đó của nó không dễ dàng được bày tỏ ra theo cung cách này. Củng cố ý chí và lặp lại những hành động nhất định nào đó tạo nên hạnh kiểm đạo đức, và không có sự lặp đi lặp lại có ý thức, tự do và trân trọng những hành vi tốt thì việc giáo dục hạnh kiểm đó sẽ không hoàn tất. Những lí do, hoặc sự hấp dẫn mà ta cảm thấy về một giá trị nhất định nào đó, sẽ không trở thành nhân đức nếu không có những hành động vốn có động lực thúc đẩy thích hợp.

267. Tự do là một cái gì đó rất kì vĩ, nhưng ta cũng có thể đánh mất nó. Giáo dục đạo đức là vun trồng tự do qua các gợi ý, các động lực, những áp dụng thực hành, những khích lệ, phần thưởng, gương lành, mẫu mực, biểu tượng, những suy tư, những lời khuyên dạy, xem xét lại cách hành động và các đối thoại giúp con người phát triển những nguyên tắc bền vững trong nội tâm, có thể đi đến mức làm điều tốt một cách bộc phát. Nhân đức là một xác tín đã được chuyển hóa thành nguyên tắc hành động thuộc nội tâm và bền vững. Bởi thế, đời sống đạo đức xây dựng tự do, củng cố và giáo dục tự do, qua việc ngăn chặn con người trở thành nô lệ cho những xu hướng cưỡng bách biến con người thành bất nhân và chống xã hội. Thật vậy, chính phẩm giá con người đòi hỏi mỗi người phải “hành động theo sự lựa chọn có ý thức và tự do, nghĩa là được thúc đẩy và xác quyết bởi những xác tín cá nhân”[3].

Việc sửa phạt có giá trị kích hoạt

268. Tương tự, điều thiết yếu cần giúp trẻ em và thanh thiếu niên nhận ra rằng mọi hành động xấu đều có hậu quả của nó. Cần khơi dậy nơi chúng khả năng tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác và hối hận vì đã gây ra sự dữ làm cho người ta đau khổ. Một số hình phạt – đối với những hành động hung hăng chống lại xã hội – có thể phần nào đạt được mục tiêu này. Điều quan trọng là kiên quyết dạy cho trẻ biết xin lỗi và sửa chữa những thiệt hại gây ra cho người khác. Khi tiến trình giáo dục cho thấy những hoa quả nơi sự trưởng thành tự do cá nhân, thì chính đứa trẻ đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu chân nhận với lòng tri ân rằng thật là quí hóa khi được lớn lên trong một gia đình và nó cũng chịu đựng được ngay cả những đòi hỏi mà tiến trình huấn luyện đặt ra.

269. Việc sửa lỗi sẽ là một kích hoạt khi cùng một lúc cha mẹ đáng giá cao và nhìn nhận những nỗ lực của con trẻ, còn con trẻ thì nhận ra cha mẹ vẫn tin tưởng kiên nhẫn với nó. Một đứa trẻ được ân cần sửa sai sẽ cảm thấy mình được quan tâm, nó nhận thấy mình là một ai đó, cảm thấy cha mẹ nhìn nhận những tiềm năng của mình. Điều này không đòi hỏi cha mẹ phải hoàn hảo, nhưng cần khiêm tốn nhận biết những hạn chế của mình và chứng tỏ rằng mình cũng rất nỗ lực để trở nên tốt hơn. Tuy nhiên, một dấu chứng mà con cái cần thấy nơi cha mẹ đó là không để cho những cơn giận cuốn mình đi. Khi con làm điều xấu, thì phải được sửa lỗi, nhưng không bao giờ xem con như một kẻ thù hoặc như một đối tượng để mình trút cơn nóng giận. Ngoài ra, người lớn phải biết rằng một số hành vi xấu gắn liền với sự mỏng manh và giới hạn tuổi tác của trẻ nhỏ. Bởi thế, việc thường xuyên sửa phạt có thể sẽ gây tác hại chứ không giúp trẻ cảm nhận được mức độ nghiêm trọng của các hành vi và gây ra sự chán nản bực bội: “Hỡ những người làm cha, đừng làm con cái bực tức” (Ep 6,4; cf. Cl 3,21).

270. Điều cơ bản là đừng biến kỉ luật thành một lực kháng hủy hoại ước muốn, nhưng trở thành một lực đẩy để đi xa hơn. Làm thế nào để hòa nhập kỉ luật với sức năng động nội tâm? Làm thế nào để đảm bảo kỉ luật là một giới hạn có tính xây dựng của cuộc hành trình mà đứa trẻ phải đảm nhận, chứ không phải là một bức tường ngăn chặn hoặc là một lối giáo dục gây ức chế? Cần tìm ra sự cân bằng giữa hai thái cự có hại như nhau. Một đàng đòi phải xây dựng một thế giới phù hợp với những ước muốn của con cái, chúng sẽ lớn lên với ý thức mình là chủ thể của quyền lợi chứ không phải của trách nhiệm. Đàng khác đi đến chỗ con cái sống mà không ý thức về phẩm giá của mình, về căn tính riêng và các quyền của mình, chúng bị đè nặng bởi các nghĩa vụ và phục tùng để thực thi những ước muốn của người khác.

Thực tiễn trong kiên nhẫn

271. Giáo dục đạo đức bao hàm việc chỉ đòi hỏi một đứa bé hay một người trẻ chỉ những điều đối với chúng không là một hi sinh quá mức chịu đựng, và chỉ đòi hỏi trong mức độ chúng phải nỗ lực mà không gây phẫn uất hoặc cảm thấy bị cưỡng bức. Hành trình thông thường là đề ra những bước nhỏ có thể được hiểu, được chấp nhận và được trân trọng, và bao gồm một sự từ bỏ hợp lí. Ngược lại, nếu đòi hỏi quá nhiều, thì sẽ không được điều gì cả. Con người ta ngay khi có thể được giải thoát khỏi quyền bính, có thể sẽ thôi không còn làm điều tốt nữa.

272. Việc giáo dục đạo đức đôi khi gặp phải phản ứng khinh thường do con trẻ trải nghiệm mình đã bị bỏ rơi, vì thất vọng, thiếu tình thương, hoặc một ấn tượng xấu về cha mẹ. Các giá trị đạo đức được phóng chiếu lên những hình ảnh méo mó của người cha và người mẹ, hoặc những yếu đuối của người lớn. Bởi thế, ta cần giúp thanh thiếu niên biết áp dụng trong thực tế những điều tương tự như: những giá trị đạt được cách đặc biệt nơi một số người rất gương mẫu, nhưng cũng được thể hiện một cách không hoàn hảo và ở các mức độ khác nhau. Đồng thời, vì những phản kháng của người trẻ thường gắn liền với những kinh nghiệm tiêu cực, cho nên ta cần giúp họ theo con đường chữa trị vết thương của thế giới nội tâm này, từ đó họ mới có thể đi đến sự thông cảm và hòa giải với con người và với xã hội.

273. Trong khi đề ra các giá trị, ta cần tiến hành từ từ, khai triển bằng nhiều cách khác nhau tùy theo độ tuổi và khả năng cụ thể của con trẻ, không đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp nghiêm ngặt và thiếu uyển chuyển. Những đóng góp có giá trị của tâm lí học và khoa học giáo dục cho thấy rằng để làm thay đổi hành vi của một đứa trẻ cần có một quá trình tiệm tiến, nhưng cũng như tự do nó cần được khai thông và kích thích, vì tự nó tự do không thể đảm bảo sự trưởng thành của mình. Tự do được đặt trong hoàn cảnh, thực tế, đó là tự do bị giới hạn và có điều kiện. Tự do đó không đơn thuần là một khả năng lựa chọn điều tốt hoàn toàn có tính bộc phát. Ta thường không phân biệt được cách thỏa đáng giữa hành động “tự nguyện” và hành động “tự do”. Một người nào đó có thể ước muốn rất mạnh mẽ một điều gì đó xấu xa, do một niềm đam mê không thể cưỡng lại hoặc bởi một nền giáo dục tệ hại. Trong trường hợp như vậy, quyết định của người ấy đúng thực là tự nguyện, không mâu thuẫn với xu hướng của ý chí, nhưng đó không phải là tự do, bởi vì hầu như người đó không thể không chọn điều xấu ấy. Đó là điều xảy ra với người nghiện ngập ma túy không cưỡng lại được. Khi người đó muốn có ma túy thì anh làm hết sức để có nó, nhưng anh ta đã bị áp lực cưỡng bức mạnh mẽ đến nỗi lúc đó anh không thể có một quyết định khác hơn. Vì vậy, quyết định của anh là tự nguyện, nhưng không tự do. Không có nghĩa gì cả khi nói “hãy để anh tự do lựa chọn”, bởi lẽ thật ra anh không thể chọn lựa, và càng lao vào ma túy anh càng gia tăng nghiện ngập. Người nghiện cần đến sự giúp đỡ của người khác và một tiến trình giáo dục.

Đời sống gia đình như một khung cảnh giáo dục

274. Gia đình là trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản, nơi đây người ta học biết sử dụng tự do một cách tốt đẹp. Có những xu hướng đã được hình thành chín chắn trong thời thơ ấu bám rễ sâu trong con người và chúng vẫn còn tồn tại suốt cuộc đời, như một cảm xúc thuận lợi đối với một giá trị, hoặc như một sự chối bỏ tự phát những lối cư xử nhất định. Nhiều người hành động trong cả cuộc sống theo một cung cách nhất định nào đó vì họ xem như vậy là đáng giá, cái cung cách hành động như đã thấm sâu và trở thành con người của họ từ thời thơ ấu: “Tôi đã được dạy như thế”; “Đó là những gì tôi đã học”. Trong bối cảnh gia đình, người ta cũng có thể học biết phân định với tinh thần phê bình các thông điệp do các phương tiện truyền thông đem lại. Thật đáng buồn, một số chương trình truyền hình hoặc một số hình thức quảng cáo có ảnh hưởng tiêu cực và hạ thấp những giá trị hấp thụ được từ trong cuộc sống gia đình.

275. Trong thời đại hiện nay, nơi mà những lo lắng và tốc độ kĩ thuật ngự trị, nhiệm vụ rất quan trọng của gia đình là giáo dục khả năng biết chờ đợi. Vấn đề không phải là cấm bọn trẻ chơi với các thiết bị điện tử, nhưng phải tìm cách để giúp chúng có khả năng phân biệt các lí lẽ khác nhau và không áp dụng tốc độ kĩ thuật số trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Trì hoãn không phải là khước từ ước muốn, nhưng là làm chậm lại sự thỏa mãn của mình. Khi trẻ em hoặc thanh thiếu niên không được giáo dục để chấp nhận rằng có những điều phải chờ đợi, chúng sẽ trở thành những kẻ kiêu căng độc tài, bắt mọi sự phục tùng để thỏa mãn nhu cầu trước mắt của chúng và chúng lớn lên cùng với thói hư muốn có “tất cả ngay lập tức”. Đó là một sự lừa dối kinh khủng vốn không giúp cho tự do triển nở, mà còn làm hại tự do. Trái lại, khi người ta giáo dục để học biết trì hoãn một số điều và học biết chờ đợi cho tới thời điểm phù hợp, tức là người ta dạy cho biết làm chủ bản thân, độc lập trước các xung năng của mình nghĩa là gì. Như thế, khi trẻ em kinh nghiệm được mình có thể chịu trách nhiệm về chính mình, lòng tự trọng của chúng càng được phát triển. Đồng thời, điều đó dạy cho chúng biết tôn trọng quyền tự do của người khác. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là kì vọng trẻ sẽ hành động như người lớn, nhưng cũng không được xem thường khả năng phát triển sự tự do trong trách nhiệm đến mức trưởng thành của chúng. Trong một gia đình lành mạnh, tiến trình học tập này được thực hiện cách thôg thường qua những đòi hỏi của cuộc sống chung.

276. Gia đình là môi trường đầu tiên của việc hòa nhập xã hội, bởi vì đó là nơi đầu tiên con người học biết đặt mình đối diện với người khác, để lắng nghe, để chia sẻ, để chịu đựng, để tôn trọng, để giúp đỡ, để chung sống. Nhiệm vụ của giáo dục là phải khơi dậy cảm nhận về thế giới và xã hội như “bầu khí gia đình”, dạy ta biết “sống” vượt ra ngoài giới hạn ngôi nhà riêng của mình. Trong khung cảnh gia đình ta học để làm sống lại sự gần gũi, quan tâm lẫn nhau, chào hỏi nhau. Nơi đó người ta phá vỡ vòng vây ích kỉ nguy khốn để nhận ra rằng chúng ta đang sống cùng những người khác, với những người khác, những người xứng đáng với sự quan tâm, tử tế, và tình cảm của chúng ta. Sẽ không có mối tương quan xã hội nào nếu không có chiều kích đầu tiên của cuộc sống thường nhật này, xem ra rất nhỏ nhặt: sống gần gũi bên nhau, hằng ngày chúng ta gặp nhau lúc này lúc khác, cùng lo đến những điều tất cả chúng ta bận tâm, giúp nhau trong những điều nhỏ nhặt hằng ngày. Mỗi ngày gia đình phải sáng tạo những cách thức mới để gia tăng sự nhận biết lẫn nhau.

277. Trong khung cảnh gia đình người ta cũng có thể thiết lập lại các thói quen tiêu dùng để cùng nhau tiên liệu cho ngôi nhà chung: “Gia đình là chủ thể chính của một hệ sinh thái toàn diện, bởi lẽ nó là chủ thể xã hội đầu tiên, chứa đựng trong chính mình hai nguyên lí-nền tảng của nền văn minh nhân loại trên trái đất: các nguyên lí của hiệp thông và nguyên lí của sự phong nhiêu”[4]. Cũng vậy, những lúc khó khăn và gian khổ trong đời sống gia đình có thể dạy ta rất nhiều điều. Chẳng hạn như khi trong gia đình có một người bệnh, vì “trước hoàn cảnh bệnh hoạn, trong gia đình cũng phát sinh những khó khăn, nguyên nhân do sự yếu đuối của con người. Nhưng, nhìn chung, thời gian gia đình có người bệnh lại là thời gian làm tăng sức mạnh gắn kết gia đình. [...] Một nền giáo dục mà đánh mất sự nhạy cảm với bệnh tật của con người, sẽ làm cho con tim người ta trở nên cằn cỗi. Điều đó làm cho trẻ “bị tê liệt” trước nỗi đau khổ của người khác, không có khả năng đối đầu với đau khổ và sống kinh nghiệm các giới hạn”[5].

278. Các công nghệ truyền thông và giải trí ngày càng phong phú có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn hoặc cản trở sự gặp gỡ giữa cha mẹ và con cái xét về mặt giáo dục. Khi được sử dụng tốt thì chúng có thể hữu ích để nối kết các thành viên trong gia đình cho dẫu ở xa nhau. Sự liên lạc thường xuyên có thể giúp giải quyết các khó khăn[6]. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng chúng không thay thế cho nhu cầu đối thoại cá nhân và sâu xa hơn vốn cần có một sự tiếp xúc thể lí, hoặc ít nhất, nghe được tiếng nói của người kia. Chúng ta biết đôi khi những phương tiện này làm cho người ta cách xa nhau thay vì xích lại gần nhau, như khi đến giờ ăn mà mỗi người đều chú tâm vào chiếc điện thoại di động của mình, hoặc khi một người đi ngủ trong khi phải chờ người kia, đang mải mê hàng giờ với một thiết bị điện tử. Trong gia đình, đây cũng phải là lí do để đối thoại và thỏa thuận với nhau để làm sao gia đình dành ưu tiên cho sự gặp gỡ của các thành viên mà không rơi vào những điều cấm đoán phi lí. Tuy nhiên, chúng ta không thể bỏ qua những nguy cơ của các hình thức truyền thông mới đối với trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, chúng đôi khi làm cho trẻ trở nên thờ ơ, tách rời khỏi thế giới thực. Bệnh “tự kỉ về kĩ thuật” này dễ dàng đưa trẻ vào tầm thao túng của những người tìm cách xâm nhập vào thế giới sâu kín của chúng với những bận tâm ích kỉ.

279. Cũng không tốt nếu cha mẹ trở nên độc tài toàn trị đối với con cái mình, chúng vốn chỉ có thể tin tưởng vào họ, bởi vì như thế là cản trở một tiến trình thích đáng giúp chúng hòa nhập vào xã hội và trưởng thành tình cảm. Để hiệu quả của việc làm cha và làm mẹ được nối dài đến với một thực tại rộng lớn hơn, “các cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi để hỗ trợ cho sứ mạng giáo dục của gia đình”[7], cách đặc biệt qua huấn giáo khai tâm. Để hỗ trợ một nền giáo dục toàn diện, chúng ta cần “làm sống lại giao ước giữa gia đình và cộng đoàn Kitô hữu”[8]. Thượng Hội đồng đã muốn nêu rõ tầm quan trọng của các trường Công giáo, vốn “đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp cha mẹ hoàn tất bổn phận giáo dục con cái[9] [...]. Các trường Công giáo cần được khuyến khích trong sứ mạng giúp các em học sinh lớn lên thành người trưởng thành, những người có thể nhìn thấy thế giới bằng cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu và hiểu được cuộc sống như một lời mời gọi phục vụ Thiên Chúa”. Theo nghĩa đó, “cần được khẳng định cách dứt khoát về quyền tự do của Hội thánh về việc dạy đạo lí và quyền phản đối theo lương tâm của các nhà giáo dục”[10].


[1] EG, 222: AAS 105 (2013), 1111.

[2] HG (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[3] GS, 17.

[4] HG (30.9.2015): L’Osservatore Romano, 1.10.2015, tr. 8.

[5] HG (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8.

[6] Cf. RF 2015, 67.

[7] HG (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[8] HG (9.9.2015): L’Osservatore Romano, 10.9.2015, tr. 8.

[9] RF 2015, 68.

[10] RF 2015, 58.