HẠNH CÁC THÁNH THÁNG 6

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Xem: 1409 | Cật nhập: 7/23/2020 8:56:18 PM | RSS

HẠNH CÁC THÁNH THÁNG 6

1/6 – Thánh Giúttinô, Tử đạo (qua đời năm 165)

Thánh Giúttinô không ngừng đòi hỏi sự thật tôn giáo, ngay cả khi ngài trở lại Kitô giáo sau nhiều năm nghiên cứu các triết học ngoại giáo.

Khi còn trẻ, ngài theo trường phái của Plato. Tuy nhiên, ngài thấy Kitô giáo trẻ lời được những vấn đề quan trọng về cuộc sống và sự hiện hữu hơn hẳn các triết gia.

Khi trở lại đạo, ngài tiếp tục mặc loại áo choàng (mantle) dành cho triết gia, và trở thành triết gia Kitô giáo. Ngài kết hợp Kitô giáo với các yếu tố tốt nhất của triết học Hy Lạp. Theo ngài, triết học là nhà mô phạm (pedagogue) của Đức Kitô, nhà giáo dục dẫn người ta đến với Đức Kitô.

Thánh Giúttinô có tiếng là nhà biện giải tôn giáo (apologist), bảo vệ bằng những bài viết về Kitô giáo phản bác những khích bác và hiểu lầm của người ngoại giáo. Hai bài biện giải của ngài còn truyền lại cho chúng ta, hai bài này được gởi cho hoàng đế Rôma và thượng viện. Vì trung thành với Kitô giáo, ngài bị xử trảm tại Rôma năm 165.

2/6 – Các thánh Marcêllinô và Phêrô, Tử đạo (qua đời năm 304)

Các thánh Marcêllinô và Phêrô nổi bật trong giáo hội và được kể trong số các thánh của giáo luật Rôma. Nhắc đến tên các ngài là cách chọn lựa trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Eucharistic Prayer I). Thánh Marcêllinô là linh mục, thánh Phêrô là người trừ quỷ (exorcist), nghĩa là người được giáo hội trao quyền xử lý các trường hợp bị ma quỷ trói buộc. Các ngài đều bị xử trảm trong thời bách hại của Diocletian (hoàng đế Rôma, 284-301). ĐGH Damasô viết văn bia (epitaph) dựa vào thông tin của đao phủ, và Constantine cho xây đền thờ ở Rôma ngay trên hầm mộ an táng các ngài. Có nhiều truyền thuyết về cái chết của các ngài.

Tại sao các ngài được nhắc đến trong King nguyện Thánh Thể và có ngày lễ, mặc dù hầu như không biết gì về các ngài? Có thể vì giáo hội tôn trọng ký ức tập thể. Có lần các ngài đã thôi thúc khuyến khích toàn thể giáo hội. Các ngài đã tạo bước quyết định về đức tin: “Giáo hội luôn tin rằng cá thánh tông đồ, và các vị tử đạo của Chúa Kitô đã làm chứng về đức tin và bác ái bằng chính máu mình, kết hiệp mật thiết với chúng ta trong Đức Kitô” (Hiến chế về Giáo hội, 50).

3/6 – Chân phước Gioan XXIII, Giáo hoàng (1881-1963)

Ít người có ảnh hưởng trong thế kỷ XX như CP Giáo hoàng Gioan XXIII, ngài tránh được người khác chú ý càng nhiều càng tốt. Thật vậy, có người đã viết rằng “tính bình dân” (ordinariness) có vẻ là một trong các đức tính nổi bật của ngài nên ngài được nhắc đến với biệt danh “ông già bình dân”.

Là con cả trong một gia đình ở Sotto il Monte, gần Bergamo thuộc Bắc Ý, Angelo Giuseppe Roncalli luôn hãnh diện về nguồn gốc thực tế (down-to-earth roots). Là chủng sinh ở chủng viện Bergamo, ngài còn gia nhập Dòng Ba Phanxicô.

Sau khi thụ phong linh mục năm 1904, ngài trở lại Rôma để học giáo luật (canon law). Sau đó ngài làm thư ký cho giám mục, rồi là giáo sư dạy lịch sử giáo hội tại chủng viện và xuất bản báo chí của giáo phận.

Ngài là người khiêng cáng (stretcher-bearer) cho quân đội Ý trong Thế chiến nên ngài trực tiếp biết về chiến tranh. Năm 1921, ngài được bầu làm giám đốc Hội Truyền bá Đức tin (Society for the Propagation of the Faith), ngài dành thời gian dạy khoa nghiên cứu tông phẩm (patristics, các tác phẩm của các tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu) tại chủng viện ở Rôma.

Năm 1925, ngài làm nhà ngoại giao Tòa thánh, phục vụ đầu tiên ở Bulgaria, rồi ở Thổ Nhĩ Kỳ và ở Pháp (1944-53). Trong Thế chiến II, ngài thân quen với các vị lãnh đạo Chính thống giáo và được trợ giúp của đại sứ quán Đức tại Thổ Nhĩ Kỳ, TGM Roncalli đã cứu thoát khoảng 24.000 người Do Thái.

Ngài được tấn phong hồng y và được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Venice năm 1953. Một tháng sau sinh nhật thứ 78, ngài được bầu làm giáo hoàng, chọn danh hiệu Gioan, tên của cha ngài và thánh bổn mạng đền thờ Rôma, thánh Gioan Latêranô. Ngài làm việc rất nghiêm túc, nhưng chính ngài không nghiêm khắc. Sự hóm hỉnh của ngài mau được mọi người biết đến, và ngài bắt đầu họp với các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị trên khắp thế giới. Năm 1962, ngài nỗ lực giải quyết sự khủng hoảng tên lửa của Cuba.

Hai Tông thư nổi tiếng của ngài là Mẹ và Thầy (Mother and Teacher, 1961) và Hòa bình trên Trái đất (Peace on Earth, 1963).

ĐGH Gioan XXIII thêm tổng số thành viên của Hồng y đoàn (College of Cardinals) và toàn cầu hóa Hồng y đoàn. Phát biểu tại buổi khai mạc Công đồng Vatican II, ngài chỉ trích “các nhà tiên tri về tận thế (prophets of doom) trong thời đại hiện đại không thấy gì mà chỉ quanh co và phá hoại”. Ngài nói: “Giáo hội luôn luôn chống lại... các sai lầm. Tuy nhiên, ngày nay giáo hội thích dùng liệu pháp Lòng Thương Xót hơn là nghiêm khắc”. Trên giường bệnh, ngài nhắn nhủ: “Không phải Phúc âm đã thay đổi mà là chúng ta đã bắt đầu hiểu Phúc âm đúng hơn. Những ai sống lâu như tôi đều có thể so sánh các nền văn hóa và truyền thống khác nhau, và cũng biết rằng đã đến lúc nhận biết các dấu hiệu của thời đại, nắm bắt cơ hội và nhìn xa trông rộng”.

ĐGH Gioan Phaolô II phong chân phước cho ngài vào ngày 3-9-2000, ngày 11-10 (ngày khai mạc khóa họp đầu tiên của Công đồng Vatican II) là lễ nhớ ngài.

4/6 – Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo (qua đời năm 1886)

Một trong 22 vị tử đạo của Uganda là thánh Charles Lwanga. Ngài là bổn mạng giới trẻ và hoạt động Công giáo ở hầu hết các nước Phi châu. Ngài bảo vệ các bạn tiểu đồng (từ 13 tới 30 tuổi) khỏi các nhu cầu đồng tính của nhà cầm quyền Baganda là Mwanga, ngài khuyến khích và hướng dẫn họ trong đức tin Công giáo ngay trong nhà tù vì tội từ chối yêu cầu của nhà lãnh đạo.

Vì từ chối hành động vô luân và bảo vệ đức tin cho các bạn, thánh Charles bị thiêu tại Namugongo ngày 3-6-1886 theo lệnh của Mwanga.

Ngài biết đến giáo huấn của Chúa Kitô nhờ 2 cận thần của thẩm phán Mawulugungu. Ngài được vào hoàng cung để giúp Joseph Mukaso, trưởng nhóm tiểu đồng.

Vào đêm Mukaso chịu tử đạo vì khuyến khích giới trẻ Phi châu chống lại Mwanga, thánh Charles xin lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Bị tù với các bạn, ngài can đảm và tin Chúa đã linh hứng cho họ giử đức khiết tịnh và đức tin.

Trong lễ phong thánh cho 22 vị tử đạo ngày 18-10-1964, CP Giáo hoàng Phaolô VI đã nhắc đến các tiểu đồng của Anh cũng chịu tử đạo vì cùng lý do đó.

5/6 – Thánh Boniface, Giám mục (672?-754)

Thánh Boniface được biết đến là tông đồ của người Đức. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, và được chọn làm tu viện trưởng. Ngài dành cả đời để hoán cải các bộ lạc ở Đức. Ngài có 2 đức tính nổi bật: tuân thủ chính thống Kitô giáo và trung thành với Giáo hoàng La Mã.

Sự chính thống và lòng trung thành này tạo ra các điều kiện mà ngài thành lập trong hành trình sứ vụ đầu tiên năm 719 theo yêu cầu của ĐGH Grêgôriô II.

Có những điều kiện mà thánh Boniface tường trình năm 722 trong lần đầu tiên đến thăm Rôma. ĐGH hướng dẫn ngài cải cách Giáo hội Đức và gởi thư khuyên răn các tín hữu và các lãnh đạo nhà nước. Về sau ngài nói là công việc của ngài không thành công, theo quan điểm của con người. Rồi ngài được tấn phong giám mục cai quản và tổ chức cả Giáo hội Đức rất thành công.

Tại vương quốc Frank, ngài gặp nhiều rắc rối vì có sự can thiệp của phần đời trong việc bầu chọn giám mục, các giáo sĩ thiếu sự kiểm soát của giáo hoàng. Trong sứ vụ cuối cùng tại Frisian, ngài và 53 người khác bị tàn sát khi ngài chuẩn bị ban bí tích Thêm sức.

Để bảo đảm Giáo hội Đức trung thành với Rôma và hoán cải người ngoại giáo, ngài theo 2 quy luật: Một là duy trì đức vâng lời của các giáo sĩ đối với các giám mục hiệp thông với Rôma, hai là thiết lập nhiều nhà cầu nguyện theo kiểu tu viện Biển Đức. Nhiều nam nữ tu sĩ Anglo-Saxon theo ngài tới lục địa. Ngài giới thiệu cách giáo dục với các nữ tu Biển Đức để làm việc tông đồ.

6/6 – Thánh Norbert (1080?-1134)

Đôi khi bạn bè đùa đọc trại tên Premonstratensians thành “Monstrous Pretensions” (kỳ vọng lớn lao) kiểu như Dòng Phan Sinh O.F.M. đọc đùa là “Out For Money” (ra ngoài kiếm tiền). Tên ngài có nguồn gốc từ Premontre, một vùng ở nước Pháp, nơi Norbert đã lập dòng này hồi thế kỷ 12.

Nhớ lại biệt danh này, Norbert thành lập dòng này với nhiệm vụ to lớn: chống lại các tà thuyết, đặc biệt là quan tâm bí tích Thánh Thể, tái tạo sức sống cho nhiều tín hữu lãnh đạm và phóng đãng, đồng thời tác động hòa bình và hòa giải trong kẻ thù.

Norbert không kỳ vọng hoàn tất nhiệm vụ đa năng này. Được nhiều người giúp đỡ đã gia nhập dòng, he ngài nhận thấy không gì có thể trở thành hiệu quả nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Tìm được sự giúp đỡ qua lòng sùng kính Thánh Thể, ngài và các tu sĩ của dòng cùng tạ ơn Thiên Chúa về sự thành công trong việc hoán cải những người theo tà thuyết, hòa giải kẻ thù và tái tạo đức tin ở những tín hữu nguội lạnh.

Dù không muốn, nhưng Norbert vẫn chấp nhận làm tổng giám mục giáo phận Magdeburg thuộc miền Trung Đức quốc, có một nửa là Kitô hữu và một nửa là người ngoại. Trên cương vị giám mục, ngài nhiệt thành và can đảm hoàn tất sứ vụ tông đồ đối với giáo hội. Ngài qua đời ngày 6-6-1134.

7/6 – Tôi tớ Chúa Giuse Perez, Linh mục Tử đạo (1890-1928)

Thế kỷ III, Tertullian nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo hội”. Giuse Perez đã thực hiện truyền thống này.

Ngài sinh tại Coroneo, Mexico, vào Dòng Phan Sinh lúc 17 tuổi. Vì tình trạng bất ổn ở Mexico thời đó (sức ép của Pancho Villa lan sang cả New Mexico), ngài phải đi học triết học và thần học tại California.

Sau khi thụ phong linh mục tại Santa Barbara, ngài trở về Mexico và phục vụ tại Jerecuaro từ năm 1922. Cuộc bách hại dưới thời Plutarco Calles (1924-28) khiến ngài phải cải trang nhiều hình thức khi đi thăm giáo dân. Năm 1927, giáo hội trong nước chịu cảnh khốn khó: các trường Công giáo đều bị đóng cửa, các linh mục và các nữ tu ngoại quốc đều bị trục xuất.

Một hôm, ngài và vài người khác bị bắt khi đang trên đường trở về sau khi bí mật cử hành thánh lễ. Ngài bị quân lính đâm chết cách Celaya vài dặm vào ngày 2-6-1928.

Thi hài ngài được rước về Salvatierra, và được an táng trong tiếng hô vang:"Viva, Cristo Rey!" (Vạn tuế Vua Kitô!).

8/6 – Thánh William York, Giám mục (qua đời năm 1154)

Ngài sinh ra trong một gia đình quyền thế tại Anh quốc hồi thế kỷ 12, ngài như được tiền định làm những việc vĩ đại. Người chú bác của ngài sau đó lên ngôi cai trị Anh quốc. Ngài phải đối mặt với sự thù hận trong giáo hội.

Mặc dù khó khăn, ngài vẫn được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo phận York năm 1140. Các giáo sĩ địa phương ít nhiệt thành, và tổng giám mục giáo phận Canterbury không đồng ý tấn phong giám mục cho linh mục William. Ba năm sau, ngài được một giám mục khác tấn phong, nhưng không được ĐGH Innocent II chấp thuận, các giáo hoàng kế nhiệm cũng không chấp thuận. Ngài bị truất phế và người khác được chọn thay thế.

Mãi đến năm 1154, 14 năm sau khi ngài được bổ nhiệm, ngài mới chính thức được chấp nhận là giám mục giáo phận York. Lúc này ngài được mọi người đồng tình ủng hộ. Như chỉ 2 tháng sau đó ngài qua đời, có thể bị đánh thuốc độc. Người bị tình nghi là giám mục phụ tá, nhưng đến nay vẫn chưa ngã ngũ.

Dù mọi thứ xảy ra, ngài vẫn không tỏ ra thù ghét những người ghét ngài. Sau khi ngài qua đời, nhiều phép lạ được coi là có sự can thiệp của ngài. Sau 73 năm, ngài được phong thánh.

9/6 – Thánh Ephrem, Phó tế (306?-373)

Là thi sĩ, giáo viên, nhà giảng thuyết và người bảo vệ đức tin, thánh Ephrem còn là Tiến sĩ Giáo hội. Ngài tự nhận trách nhiệm đặc biệt là chống lại nhiều thuyết sai lầm “nổi cộm” thời đó, luôn bảo vệ Giáo hội Công giáo một cách trung thực và mạnh mẽ.

Ngài sinh tại Nisibis, Mesopotamia, lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy khi còn trẻ và nổi tiếng là thầy dạy ở thành phố quê hương ngài. Khi hoàng đế Kitô hữu phải nhượng Nisibis cho người Ba Tư, ngài cùng nhiều Kitô hữu khác lánh nạn sang Edessa. Ngài có uy tín trong việc tạo danh tiếng cho trường Kinh thánh ở đó. Ngài được phong chức phó tế nhưng từ chối làm linh mục – người ta còn nói rằng ngài từ chối làm giám mục bằng cách giả điên (by feigning madness).

Ngòi bút của ngài phong phú và các bài viết của ngài chứng tỏ sự thánh thiện của ngài. Dù ngài không là một học giả vĩ đại, các tác phẩm của ngài phản ánh sự hiểu biết sâu sắc và kiến thức rộng về Kinh thánh. Trong các bài viết về các mầu nhiệm của ơn cứu độ, ngài thể hiện sự cảm thông nhân bản và thực tế, ngài còn rất sùng kính nhân tính của Chúa Giêsu. Người ta nói rằng bài thơ Phán Xét Cuối Cùng (Last Judgment) của ngài đã gợi hứng cho thi sĩ Dante.

Ngài viết những bài thánh ca (hymns) chống lại các tà thuyết hồi đó. Ngài còn lấy giai điệu của các ca khúc phổ thông, viết lời thể hiện giáo lý chính thống. Ngài là một trong những người đầu tiên đưa ca khúc vào việc thờ phượng chung của Giáo hội. Nhiều bài thánh ca của ngài làm cho ngài có biệt danh là “Cây đàn của Thánh Linh” (Harp of the Holy Spirit).

Ngài sống giản dị và khắc khổ tại một hang động nhìn ra thành phố Edessa. Ngài qua đời tại đây khoảng năm 373.

10/6 – Chân phước Joachima (1783-1854)

Joachima sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Barcelona, Tây Ban Nha. Lúc 12 tuổi, thánh nữ ước muốn đi tu Dòng Camêlô (Carmelite). Nhưng cuộc đời bà có bước ngoặt khác lúc 16 tuổi là kết hôn với một luật sư trẻ Theodore de Mas. Cả hai vợ chồng đều sùng đạo, cùng vào Dòng Ba Phanxicô. Trong 17 năm hôn nhân, họ có 8 người con.

Đời sống gia đình bị ngắt quãng khi Napoleon xâm lăng Tây Ban Nha. Joachima phải đưa các con đi trốn. Theodore không kịp trốn và bị chết. Dù bà vẫn muốn vào dòng tu, bà chú tâm vào nhiệm vụ làm mẹ. Cùng lúc đó, bà sống khắc khổ và chọn tu phục của Dòng Ba Phanxicô làm trang phục thường ngày. Bà dành nhiều thời gian cầu nguyện và thăm viếng bệnh nhân.

Bốn năm sau, vài đứa con đã kết hôn và bà vẫn phải chăm sóc mấy đứa con nữa, bà nói với một linh mục về ước muốn đi tu của bà. Được khuyến khích, bà lập dòng Tỷ muội Bác ái Camêlô (Carmelite Sisters of Charity). Chiến tranh đang xảy ra lúc đó, bà bị tù một thời gian ngắn, rồi bị đày sang Pháp vài năm.

Bệnh tật khiến bà phải từ chức Mẹ bề trên. Qua 4 naăm kế tiếp, bà bị bại liệt. Năm 1854, bà qua đời ở tuổi 71. Bà nổi tiếng và được khâm phục vì chuyên chăm cầu nguyện, tin Thiên Chúa một cách sâu sắc và sống bác ái.

11/6 – Thánh Barnabas, Tông đồ

Thánh Barnabas là người Do Thái ở Cyprus, ngài gần gũi với thánh Phaolô vì ngài giới thiệu thánh Phaolô với thánh Phêrô và các tông đồ khác. Ngài là người trung gian giữa người bắt đạo và các Kitô hữu người Do Thái còn hoài nghi.

Khi cộng đồng Kitô giáo phát triển tại Antioch, thánh Barnabas được sai đến với tư cách là đại diện chính thức của giáo hội Giêrusalem để kết hợp họ. Ngài và thánh Phaolô hướng dẫn tại Antioch một năm, sau đó đến Giêrusalem.

Lúc này, thánh Barnabas và Phaolô được coi là những người lãnh đạo uy tín, được các vị hữu trách ở Antioch cử đi giảng đạo cho dân ngoại. Công sức của các ngài gặt hái nhiều thành công. Sau một phép lạ tại Lystra, dân chúng muốn coi các ngài là các vị thần – Barnabas là thần Zeus, Phaolô là thần Hermes – nhưng các ngài nói: “Chúng tôi cũng chỉ là phàm nhân như quý vị. Chúng tôi loan báo cho quý vị biết Tin Mừng để quý vị từ bỏ các ngẫu tượng mà tôn thờ Thiên Chúa hằng sống” (x. Cv 14:8-18).

Nhưng mọi chuyện bất ổn. Các ngài bị trục xuất khỏi thành phố, các ngài phải đi Giêrusalem. Khi thánh Phaolô muốn thăm lại các nơi cũ các ngài đã giảng đạo, thánh Barnabas muốn đưa Gioan Máccô theo, nhưng thánh Phaolô cứ khăng khăng cho rằng, vì Máccô đã có lần bỏ trốn họ, ngài không thích hợp để đưa theo lúc đó. Sự bất đồng ý kiến sau đó trở nên căng thẳng đến nỗi thánh Barnabas và thánh Phaolô “chia tay”, Barnabas đưa Máccô tới Cyprus, Phaolô đưa Silas tới Syria. Sau đó, họ cùng giải hòa – thánh Phaolô, Barnabas và Máccô.

Khi thánh Phaolô ủng hộ thánh Phêrô về việc không ăn uống với dân ngoại vì sợ người Do Thái, chúng ta biết rằng “ngay cả Barnabas cũng bị lôi cuốn vì sự giả hình của họ” (x. Gl 2:1-13).

12/6 – Chân phước Jolenta (Yolanda), người Ba Lan (qua đời năm 1298)

Jolenta là nữ tử của Bela IV, vua Hungary. Chị của bà là thánh nữ Kunigunde kết hôn với công tước Ba Lan. Jolenta được gởi tới Ba Lan, nơi chị của bà giám sát việc học hành của bà.

Jolenta kết hôn với Boleslaus, cũng là một công tước. Bà dùng chính vật chất của mình để giúp người nghèo, người bệnh, người góa bụa và trẻ mồ côi. Chồng bà cùng bà xây các bệnh viện, các nhà thờ và các tu viện, và chồng bà được người ta gọi là “người ngoan đạo” (Pious).

Sau khi chồng qua đời và lo gia thất cho hai người con gái, Jolenta và người con gái thứ ba vào dòng thánh Clara Khó nghèo (Poor Clares). Bà chuyển sang nhà dòng khác và được bầu làm Mẹ bề trên, dù thật lòng bà không muốn.

Bà có rất sùng kính Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với bà và cho bà biết bà sắp từ giã thế gian. Cho tới ngày nay, nhiều phép lạ xảy ra ngay tại mộ của bà, được coi là nhờ sự can thiệp của bà.

13/6 – Thánh Antôn Pađua, Linh mục (1195-1231)

Việc Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ mọi sự mà theo Ngài là điều hợp với cuộc đời thánh Antôn. Thiên Chúa kêu gọi ngài theo kế hoạch riêng của Thiên Chúa. Thánh Antôn đáp lại bằng lòng nhiệt thành và hoàn toàn tận hiến phục vụ Thiên Chúa. Khi còn rất trẻ, ngài vào Dòng Thánh Augustinô, từ bỏ mọi sự để phục vụ Thiên Chúa. Sau đó, khi hài cốt các vị tử đạo của Dòng Phanxicô được đưa đến một thành phố của Bồ Đào Nha, nơi ngài đang ở, ngài rất muốn là người được gần gũi nhất với Chúa Giêsu: Hiến mạng sống vì Phúc âm.

Ngài vào Dòng Phanxicô và bắt đầu giảng đạo cho người Ma-rốc (Moors). Nhưng một cơn bệnh đã ngăn bước ngài. Ngài đến Ý và ở tại một nơi ẩn dật để chuyên cầu nguyện, đọc Kinh thánh và làm những việc hèn mọn.

Thánh Antôn được chọn làm linh mục, ngài khiêm nhường và vâng lời chấp nhận trọng trách đó. Nhiều năm tìm kiếm Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện, đọc Kinh thánh và và phục vụ Chúa trong sự nghèo khó, vâng lời và khiết tịnh, ngài để Chúa Thánh Thần toàn quyền sử dụng tài năng của ngài. Bài giảng của thánh Antôn làm ngạc nhiên người nghe, họ không biết đó là do Chúa Thánh Thần linh ứng.

Được nhận biết là một học giả thần học và Kinh thánh, thánh Antôn trở thành tu sĩ đầu tiên dạy thần học cho các tu sĩ khác. Khi được gọi đi rao giảng cho những người theo tà thuyết, ngài dùng kiến thức uyên bác của ngài về Kinh thánh và thần học để hoán cải họ.

14/6 – Thánh Albert Chmielowski, Tu sĩ (1845-1916)

Thánh Albert Chmielowski sinh tại Igolomia, gần Kraków, Ba Lan. Ngài là anh cả trong 4 người con của một gia đình giàu có, tên “cúng cơm” của ngài là Adam. Năm 1864, trong cuộc khởi nghĩa chống lại hoàng đế Czar Alexander III, ngài bị mất chân trái và phải lắp chân giả.

Ngài có khiếu hội họa nên được đi học ở Warsaw, Munich và Paris. Ngài trở về Kraków và vào Dòng Ba Phanxicô. Năm 1888, ngài lấy tên Albert khi thành lập Dòng Ba Anh Em Phanxicô (Brothers of the Third Order of Saint Francis), còn gọi là Dòng Phục vụ Người nghèo (Servants to the Poor). Mới đầu các tu sĩ không có nhà cửa, sống nhờ vào của bố thí khi phục vụ nhu cầu của người nghèo, bất kể tuổi tác, tôn giáo hoặc chính trị. Cộng đoàn Nữ tu Albertine được thành lập sau đó. CP GH Gioan-Phaolô II phong chân phước cho ngài năm 1983, và phong thánh cho ngài năm 1989.

15/6 – Tôi tớ Chúa Orlando Catanii

Bất ngờ gặp thánh Phanxicô Assisi năm 1213, cuộc đời của chàng Orlando (còn gọi là Roland) hoàn toàn thay đổi.

Thánh Phanxicô đã nghe nói về sự thánh thiện của Orlando. Orlando được những lời giáo huấn của thánh Phanxicô lay động nên tìm đến xin lời khuyên về cách sống tốt nhất làm đẹp lòng Chúa.

Không lâu sau, thánh Phanxicô đến thăm một vùng dưới chân núi La Verna. Thánh Phanxicô nói về những mối nguy hiểm của đời sống giàu có và thoải mái. Lời của thánh Phanxicô đã thức tỉnh lòng Orlando. Ngài quyết định phân phát của cải cho người nghèo cho dân vùng La Verna theo ý của thánh Phanxicô. Theo gợi ý của thánh Phanxicô, Orlando liền cho xây một tu viện và một nhà thờ ở đó. Về sau, nhiều nhà nguyện được xây dựng thêm. Năm 1224, hai năm trước khi thánh Phanxicô qua đời, núi La Verna là nơi thánh Phanxicô chịu 5 vết thương của Chúa Giêsu.

Orlando chỉ muốn được nhận vào Dòng Ba và được thánh Phanxicô linh hướng. Theo hướng dẫn của thánh Phanxicô, Orlando đã tách mình ra khỏi thế gian. Ngài nhiệt tâm làm việc bác ái. Sau khi qua đời, Orlando được an táng tại nhà nguyện của tu viện trên núi La Verna.

16/6 – Thánh Gioan