CÂY NHO ĐÍCH THỰC

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 13 | Cật nhập lần cuối: 5/18/2024 4:07:05 PM | RSS

CÂY NHO ĐÍCH THỰC

(Ga 15,1-6)

I.TÀI LIỆU GỢI Ý

1.Cựu Ước nhắc đi nhắc lại Do Thái là cây nho hay là vườn nho của Thiên Chúa

Như thói quen, đoạn này, Chúa Giêsu dùng những hình ảnh và tư tưởng truyền thống trong đạo Do Thái. Cựu Ước nhắc đi nhắc lại Do Thái là cây nho hay là vườn nho của Thiên Chúa. Vườn nho của Chúa là nhà Ítraen (Is 5:1-7); ‘Ta trồng cho ngươi một cây nho lựa chọn’ là thông điệp của Thiên Chúa cho Ítraen (Gr 2:21); liên kết Ítraen với cây nho (Ed 15 và 19:10); Ítraen là cây nho sung mãn (Hs 10:1); Thánh vịnh hát ‘Ngài đã bứng cây nho khỏi Ai Cập’ (Tv 80:8), liên tưởng đến việc Thiên Chúa giải thoát dân Người khỏi cảnh làm tôi bên Ai Cập (Tv 80:8). Cây nho đã thành biểu tượng của Ítraen. Cây nho có hình trên đồng cắc thời Macabê. Một trong những vinh quang của Đền Thờ là cây nho to lớn bằng vàng ngay trước cửa Đền Thờ. Nhiều vĩ nhân lấy làm vinh dự vì được dâng vàng để thêm những chùm nho mới, hay thêm những trái nho mới, vào cây nho đó. Cây nho là phần, là điều trong trí tưởng tượng của người Do Thái và là chính biểu tượng của Íraen. Chúa Giêsu nói chính Người là cây nho thật. Điều đáng chú ý là chữ alèthinos, có nghĩa là thật, đúng, chính thật, không bao giờ được dùng trong Cựu Ước tách khỏi ý tưởng sa đọa thoái hóa suy đồi. Isaia nói vườn nho đã trở thành vườn nho dại. Giêrêmia thì phàn nàn vì dân tộc đã thoái hóa, trở thành cây nho dại. Không khác ở đây Chúa Giêsu nói ‘ngươi nghĩ ngươi thuộc dân Ítraen thì là cành của cây nho thật. Song ngươi là dân đã trở thành cây nho dại, như các tiên tri đã thấy. Tôi là cây nho thật. Việc ngươi là người Do Thái không thể cứu thoát ngươi. Ngươi phải liên kết mật thiết với tôi vì tôi là cây nho của Thiên Chúa, và ngươi phải là những cành liên kết với tôi’. Chúa Giêu bảo không phải vì là dòng giống Ítraen cứu thoát, mà phải là tin vào Thiên Chúa. Không phẩm chất bên ngoài nào có thể làm ta nên tình nghĩa với Thiên Chúa mà chỉ có tình nghĩa với Chúa Giêsu mới làm được. Khi Chúa Giêsu nói đến cây nho, Người biết Người đang nói về điều gì. Nho trồng khắp Palestin xưa cũng như nay. Nho là loại cây cần chăm sóc kỹ: làm giàn với những cọc thấp nâng đỡ, đất phải thật sạch, đôi khi trồng ngay cửa nhà... nhưng bất cứ nơi đâu, đều phải đòi chăm sóc kỹ lưỡng. Việc cắt tỉa cũng phải cẩn thận. Chúng mọc xum xuê nên rất cần cắt tỉa. Xum xuê đến nỗi phải cách nhau ít nhất 12 bộ. Cây nho non không được để cho ra trái trong vòng 3 năm. Trong ba năm đầu, mỗi năm phải cắt tỉa nhiều, không cho ra trái. Khi lớn đủ, thường thường người ta cắt tỉa vào tháng 12 đến tháng 1. Chúng mang hai thứ cành, cành có quả, cành không quả, phải tỉa bỏ. Cây nho không thể sinh trái nếu không được cắt tỉa; Chúa Giêsu biết điều đó. Cây nho rất sốp, không ích lợi gì ngoại trừ để nhóm lửa hoặc vất đi. Vào thời gian nhất định trong năm, luật đòi dân phải đem củi lên Đền Thờ để nhóm lửa, nhưng không được đem củi nho. Củi nho chỉ dùng đốt bỏ. Đó là điều Chúa Giêsu biết. Chúa nói kẻ theo Người cũng giống thế. Có người sinh quả, có người không.

2.Chúa nói những cành không quả là

1.Do Thái. Họ là những cành nho của Thiên Chúa. Các tiên tri đã lần lượt nhắc đi nhắc lại. Thế mà họ lại không nghe, không chấp nhận Người, nên họ không sinh trái.

2.Bất cứ Kitô hữu hữu danh vô thực, là những người không việc làm, những người phản đạo, nghe rồi chấp nhận nhưng sau đó lại phản đạo.

Vì thế có ba cách thành những cành không trái:

- từ chối không nghe lời Chúa

- nghe bằng môi, nghe không thực hành

- nghe nhưng khi gặp khó khăn thì bỏ.

Nguyên tắc đầu tiên của Tân Ước là vô dụng chỉ dẫn đến tai họa.

3.‘Ở lại trong Chúa Kitô’ nghĩa là gì

Lời này có ý nghĩa thần bí: Chúa Giêsu ở trong người Kitô hữu và người Kitô hữu ở trong Chúa Giêsu. Nhiều người, có thể phần lớn, không bao giờ có kinh nghiệm thần bí này. Nếu cảm thấy như vậy, ta không cần phải trách mình. Cách rất đơn giản cho thấy và cảm nghiệm ta có ở lại trong Chúa Giêsu hay không. Những thí dụ sau đây, tất cả đều bất toàn, sẽ giúp ta hiểu phần nào. Một người yếu đuối bị cám dỗ, làm be bét mọi sự; anh thất vọng, chán nản... nhưng may anh có một người bạn tốt. Người bạn này can đảm, tốt bụng, tinh thần cao... anh đến giúp bạn, kéo bạn ra khỏi vực thẳm... người yếu đuối kia muốn tiếp tục sống tốt, anh phải luôn luôn tiếp xúc với bạn anh; nếu không anh lại bị thất vọng, chán nản như trước. Anh phải tiếp xúc với người bạn. Nếu không, anh sẽ lại sa ngã. Sự lành mạnh của anh lệ thuộc vào việc tiếp xúc với người bạn. Nhiều lần sa xuống và chỗi dậy là do sống với người tốt hay không. Bao lâu sống với người bạn tốt, trong nhà người bạn tốt, anh được an toàn. Nhưng khi xé rào, anh lại sa ngã. Ta phải tiếp xúc thường xuyên với những gì cao quí để tránh khỏi những gì xấu.

Robertson of Brighton là một trong những nhà giảng thuyết lỗi lạc. Người kia có một tiệm nhỏ, tại phòng cuối cùng trong tiệm, anh treo hình Robertson; đối với anh, Robertson là một người anh hùng, là thần tượng gây cảm hứng cho anh. Mỗi khi bị thử thách, chán nản, muốn bỏ cuộc... anh chạy vào phòng ngước nhìn ảnh Roberston, anh lại thấy hăng hái trở lại. Khi Kingsley được hỏi bí mật nào trong đời sống của ông, có ý nói tới F.D.Maurice, ông đáp ‘tôi có một người bạn’. Tiếp xúc với người đáng mến làm ông thành người đáng mến. Sống trong Chúa Giêsu có nghĩa giống như vậy.

4.Bí mật của Chúa Giêsu là tiếp xúc với Thiên Chúa

Người lui đi lui lại vào nơi yên lặng vắng vẻ để gặp Thiên Chúa. Ta hãy tiếp xúc với Chúa Giêsu. Không thể làm điều đó chừng nào ta chủ ý không làm. Hãy cố cầu nguyện mỗi buổi sáng, dầu chỉ vài phút, đó cũng là chất liệu cho cả ngày; vì ta không thể ra khỏi nhan Chúa Giêsu để làm sự xấu xa. Vì ít người trong chúng ta được ơn ở trong Chúa Giêsu một cách không lời diễn tả. Phần lớn, chúng ta chỉ có nghĩa là tiếp xúc thường xuyên với Chúa Giêsu. Có nghĩa là do thu xếp công việc, dành giờ cầu nguyện, thu xếp sao cho không ngày nào không nhớ đến Chúa. Sau cùng phải ghi dấu hai điều làm người môn đệ tốt. Làm giầu cuộc đời mình, tiếp xúc với Chúa. Đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Nhìn đời mình như Thiên Chúa dựng nên. Thiên Chúa được vinh quang khi ta đem lại nhiều hoa trái và tỏ ra là những môn đệ của Chúa Giêsu. Vinh quang lớn nhất của người Kitô hữu là do đời sống và tác phong của mình đem lại vinh quang cho Thiên Chúa.[1]

II.CHIA SẺ TIN MỪNG

Đối với nông dân vùng Palestine thời Chúa Giêsu, cây nho là một tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier đã lưu ý: để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux ở nước Pháp chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như một cây cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu như ở Âu Châu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nổi một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người."[2] Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1)”. Chính vì vậy Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để nói với chúng ta: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói. Tại Palestine, cây nho thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải cắt tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh.
Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được cắt tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch. Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng không hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ.[3]

Muốn nhiều hoa trái, cần phải được cắt tỉa. Nhưng cắt tỉa là một quá trình gây đau thương cho một cây ăn trái. Đây là một thực tế không thể chối cãi được. Nhưng mục đích của việc cắt tỉa không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, mà là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều trái hơn, và trái được ngon hơn. Cũng vậy, với con người chúng ta, mục đích của cắt tỉa không phải để hành hạ chúng ta nhưng là để giúp chúng ta sinh trái nhiều hơn và tốt hơn. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Tất cả những cái đó cần phải được cắt tỉa. Chính vì vậy khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.

Nói tới việc cắt tỉa là chúng ta phải nói đến vấn đề đau đớn, vấn đề đau khổ. Vấn đề đau khổ là một thực tại ngàn đời tồn tại và luôn luôn đòi được giải đáp. Đau khổ đến với ta dưới mọi hình thức: tinh thần, thể xác, bên ngoài, bên trong, cá nhận, tập thể, cộng đoàn. Ta có cảm tưởng đó là một lực lượng đến phá hủy tiềm năng phát triển con người. Nhưng với ánh sáng Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được những khía cạnh của đau khổ. Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cho ta sinh hoa trái tươi tốt về đàng thiêng liêng. Điều cần thiết là chúng ta có nhận ra được ý nghĩa của những đau khổ mà Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta. Một tấm gương điển hình: cha Titus Brandsma trong cũi chó: cha Titus Brandsma, thời thế chiến thứ hai, là viện trưởng viện đại học Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc xã bắt và giam tại trại Tập Trung Dachau, người ta nhốt ngài trong một chiếc cũi chó. Đám lính canh, mỗi lần đi qua, bắt ngài sủa lên như chó. Cuối cùng, ngài đã chết thê thảm, vì bị tra tấn quá tàn nhẫn. Trong không gian nhỏ bé của một cũi chó, bị chế nhạo như con chó và bị đối xử như một con vật ghê tởm…ngài vẫn chịu đựng. Đặc biệt, còn đủ kiên trì viết lại nhiều suy nghĩ về đau khổ, trong một cuốn sách cũ kỹ, trên một khoảng trống ở giữa hai hàng chữ. Chúng ta có thể nêu ra ở đây một lá thư ngỏ của ngài, gởi Chúa Giêsu: “lạy Chúa, không một nỗi đau nào làm con ngã quỵ, vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường cô độc chúa đã đi qua, đã giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan…tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở lại với con, chỉ cần Chúa ở lại với con thôi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên, con sẻ chẳng còn sợ hãi nữa”. Amen.

Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy


[1] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai Tập Hai trg.376-379

[2] "Đọc Thánh Kinh" số 78, trg. 54

[3] William Barclay