CÁC ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO (P.15)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2831 | Cật nhập lần cuối: 10/11/2017 9:29:00 AM | RSS

12. TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

PHẦN MỘT: GIÁO HỘI VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

I. Truyền thông phát xuất từ sinh hoạt của Thiên Chúa Ba Ngôi

Nhìn trong ánh sáng đức tin, lịch sử truyền thông của nhân loại có thể được coi như là một cuộc hành trình từ tháp Babel, vị trí và biểu tượng cho sự sụp đổ của truyền thông (St 11, 4-8), cho tới ngày lễ Hiện Xuống và ơn nói tiếng lạ (Cv 2, 5-11) – sự truyền thông được phục hồi do quyền lực của Chúa Thánh Thần do Chúa Con sai đến.[1] Thật vậy, tất cả truyền thông của con người có cơ sở trong sự truyền thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhưng còn hơn thế nữa, sự hiệp thông Ba Ngôi đến với nhân loại , Chúa Con là Lời, từ đời đời “được nói” bởi Chúa Cha; trong và qua Đức Giêsu Kitô, Chúa Con và Lời nhập thể, Thiên Chúa truyền ban chính mình và ơn cứu rỗi của mình cho mọi người. “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Sự truyền thông ở trong và bởi Giáo Hội, bắt đầu trong sự truyền thông tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và trong sự truyền thông của Ba Ngôi với chúng ta.[2]

Thiên Chúa tiếp tục truyền thông với nhân loại qua Giáo Hội, người mang lấy và gìn giữ mặc khải của Ngài, người duy nhất với chức vụ dạy dỗ đã được ủy thác nhiệm vụ diễn giải trung thực lời Ngài. Hơn thế nữa, chính Giáo Hội là một communio, một sự hiệp thông của cá nhân và cộng đoàn thánh thể do bởi và phản ảnh sự hiệp thông của Ba Ngôi; truyền thông do đó là đặc trưng của Giáo Hội. Điều này, trên tất cả mọi lý do khác, là lý do tại sao “việc thực hành truyền thông của Giáo Hội phải là gương mẫu, phản ảnh các tiêu chuẩn cao nhất của sự đúng đắn, khả tín và nhậy cảm đối với nhân quyền, và các nguyên tắc cũng như các chuẩn mực khác.[3]

II. Giáo Hội với các phương tiện truyền thông

1. Giáo Hội phải sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội

Giáo Hội sẽ cảm thấy mình mắc tội với Chúa nếu không sử dụng những phương tiện rất hiệu lực đó, những phương tiện vẫn được trí thông minh con người làm cho ngày càng hoàn bị hơn. Chính nhờ chúng mà Giáo Hội “công bố trên mái nhà” (Mt 10,27; Lc 12,3) sứ điệp giao cho mình gìn giữ. Giáo Hội xem chúng như một toà giảng theo kiểu hiện đại và hiệu nghiệm. Nhờ chúng mà Giáo Hội nói được với đại chúng (EN 45).

2. Giáo Hội luôn quan tâm đến các phương tiện truyền thông

Trong những phát minh kỳ diệu về kỹ thuật, mà tài năng con người, nhờ Thiên Chúa trợ giúp, đã từng khai thác từ tạo vật, nhất là trong thời đại chúng ta, thì Giáo Hội là mẹ, đặc biệt ân cần tiếp đón và theo dõi, từ những phát minh liên quan đặc biệt tới tinh thần con người, đến những phát minh tạo thêm những phương thế mới để truyền thông một cách hết sức dễ dàng đủ các loại tin tức, tư tưởng và mệnh lệnh. Tuy nhiên giữa những phát minh này, trổi vượt hơn cả là những phương tiện tự bản tính không những có thể liên hệ và ảnh hưởng tới từng người, mà còn đến cả đại chúng và toàn thể xã hội nhân loại như báo chí, điện ảnh, phát thanh, vô tuyến truyền hình và những thứ khác tương tự (IM 1).

Giáo Hội là Mẹ cũng biết rằng những phương tiện đó, nếu được sử dụng đúng đắn sẽ mang lại những lợi ích hữu hiệu cho nhân loại vì chúng đóng góp rất nhiều vào việc giải trí, huấn luyện tinh thần cũng như việc mở rộng và củng cố Nước Chúa. Giáo Hội cũng biết rằng con người có thể dùng chúng nghịch lại với ý định của Đấng Tạo Hóa, và làm nguy hại cho chính mình; Hơn nữa Giáo Hội là Mẹ Hiền hết sức đau lòng vì những thiệt hại quá thường xảy ra cho xã hội con người do việc cố ý dùng sai những phương tiện này.

Vì thế, để nhấn mạnh đến mối quan tâm của Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục về vấn đề quan trọng này, Thánh Công Đồng nghĩ rằng có nhiệm vụ đề cập đến những vấn đề chính yếu liên quan tới những phương tiện truyền thông xã hội. Hơn nữa Thánh Công Đồng cũng tin tưởng rằng giáo thuyết và chỉ thị được trình bày sau đây sẽ giúp ích cho phần rỗi các Kitô hữu mà còn giúp cho việc tiến bộ của toàn thể cộng đồng nhân loại (IM 2).

3. Trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa với các phương tiện truyền thông

Vì được Chúa Kitô thiết lập để mang lại phần rỗi cho hết mọi người, và do đó có nhiệm vụ phải rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội Công Giáo, nhận thấy mình cũng có bổn phận dùng cả phương tiện truyền thông xã hội mà loan báo ơn cứu rỗi và dạy con người biết sử dụng chúng cách đúng đắn.

Như thế, Giáo Hội đương nhiên có quyền sử dụng và làm chủ bất cứ loại nào trong các phương tiện truyền thông xã hội đó, tùy theo sự cần thiết hay lợi ích cho việc giáo dục Kitô hữu và cho việc mưu cầu phần rỗi các linh hồn; các vị chủ chăn đáng kính có nhiệm vụ huấn luyện và hướng dẫn các tín hữu thế nào để họ biết dùng cả những phương tiện này mà theo đuổi phần rỗi và sự toàn thiện của mình cũng như của toàn thể gia đình nhân loại.

Ngoài ra, giáo dân đặc biệt có bổn phận làm cho các phương tiện này thấm nhiễm tinh thần nhân đạo và Kitô giáo, để chúng đáp ứng đầy đủ niềm mong đợi lớn lao của xã hội nhân loại và đúng với ý định của Thiên Chúa (IM 3).

4. Mọi thành phần Dân Chúa phải tích cực sử dụng phương tiện truyền thông xã hội

Mọi con cái Giáo Hội phải đồng tâm hiệp lực, chẳng những không ngần nại mà còn hết sức hăng say, sử dụng ngay những phương tiện truyền thông xã hội cách đắc lực vào các công việc tông đồ khác nhau tùy theo những đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh và thời gian; họ cũng phải ngăn ngừa những dự định tai hại, nhất là ở những miền mà luân lý và tôn giáo đang tiến bộ cần được họ can thiệp khẩn cấp hơn.

Vậy các chủ chăn đáng kính phải cấp tốc chu toàn phận vụ mình trong lãnh vực này, vì nó liên kết chặt chẽ với với nhiệm vụ thông thường của các ngài là giảng dạy; những giáo dân đang sử dụng những phương tiện này cũng phải cố gắng làm chứng về Đức Kitô: trước hết bằng cách hoàn tất mọi công tác cho thành thạo với tinh thần tông đồ, rồi tùy khả năng kỹ thuật, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật mà trực tiếp trợ giúp hoạt động mục vụ của Giáo Hội theo phận vụ của mình (IM 13).

III. Mục đích của các phương tiện truyền thông là phục vụ con người

Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes 30-31 và Huấn Giáo Mục Vụ Communio et Progressio cho thấy rõ các phương tiện truyền thông xã hội có mục đích phục vụ nhân phẩm con người, bằng cách giúp con người sống tốt và hành động với tư cách những con người trong cộng đồng. Các phương tiện truyền thông thực hiện điều này bằng cách khuyến khích con người ý thức được phẩm giá của mình, đi vào những ý nghĩ và cảm xúc của kẻ khác, đào luyện hiểu biết trách nhiệm với nhau, và trưởng thành trong tự do cá nhân, trong sự kính trọng kẻ khác và trong khả năng đối thoại.[4]

Nhưng các phương tiện truyền thông cũng có thể bị sử dụng để phong tỏa cộng đồng và xúc phạm lợi ích toàn diện con người; bằng cách tha hóa dân chúng, hoặc cho ra rìa hoặc là cô lập dân chúng; kéo họ vào trong những nhóm người trụy lạc được tổ chức chung quanh những giá trị giả trá, có tính cach phá hoại: nuôi dưỡng những hận thù và xung đột, biến những kẻ khác thành quỉ sứ và gây nên một tâm thức “chúng ta” chống lại “chúng”; phô bày những gì đê tiện và thấp hèn trong một ánh sáng đẹp quyến rũ, nhưng lại không biết hay là xem thường những gì nâng cao tâm hồn và làm trở nên cao thượng; gieo rắc thông tin sai quấy và thông tin giả mạo đánh lạc hướng, dung dưỡng sự tầm thường và vô vị. Sự rập khuôn (stereotyping) – dựa trên nòi giống và chủng tộc, phái tính và tuổi tác và những nhân tố khác, kể cả tôn giáo – là điều thường phổ biến thật đau lòng trong các phương tiện truyền thông.[5]

Hơn nữa, thay vì giải thích những việc phức tạp cách tỉ mỉ và theo đúng sự thật, thì những phương tiện truyền thông lại tránh né hay là làm đơn giản hóa vấn đề quá đáng. Tiếp đến, những phương tiện truyền thông loại giải trí còn đề cao những hình ảnh đồi bại và làm mất nhân phẩm, kể cả những màn khai thác tính dục và bạo lực. Điều cực kỳ vô trách nhiệm, là nhiều người tỏ ra không biết hay đã làm ngơ trước sự kiện là “sách báo khiêu dâm và bạo lực tàn ác đang hạ giá phái tính, soi mòn những tương quan nhân bản, khai thác từng cá nhân – cách riêng những phụ nữ và trẻ em, đục khoét hôn nhân và đời sống gia đình, nuôi dưỡng cách sống nghịch với xã hội và làm yếu đi bản chất của chính xã hội.[6]

Tóm lại, các phương tiện truyền thông có thể được sử dụng làm điều tốt hay xấu – đó là một vấn đề chọn lựa. “Không bao giờ quên rằng sự truyền thông qua các phương tiện không phải là một việc làm vị lợi chỉ vì để cổ động, thuyết phục hay buôn bán. Càng không phải là một phương tiện vận chuyển ý thức hệ. Các phương tiện truyền thông thỉnh thoảng có thể biến những con người thành những đơn vị tiêu thụ hay là những nhóm người tranh giành lợi lộc, hay là thao túng các khán giả và độc giả như những con số, không hơn không kém, để người ta có thể trục lợi hoặc để bán hàng hoặc để hậu thuẫn chính trị; và những điều này phá hủy cộng đồng. Bổn phận của nhà truyền thông là đem dân chúng xích lại gần nhau và làm giầu cuộc sống của họ, chứ không phải cách ly hay khai thác họ. Các phương tiện truyền thông xã hội, nếu dùng đúng, có thể giúp xây dựng và giữ vững một cộng đồng nhân loại dựa trên sự công bằng và bác ái; và, bao lâu chúng làm được điều này, là chúng sẽ nên những dấu chỉ của hy vọng” (Đức Gioan Phaolô II, sứ điệp cho ngày Truyền Thông Quốc tế thứ 33, 1998). [7]

IV. Việc huấn luyện và đào tạo

1. Huấn luyện một lương tâm ngay thẳng về việc sử dụng các phương tiện truyền thông

- Vấn đề thứ nhất là về thông tin, như người ta thường nói, nghĩa là việc thu thập và phổ biến tin tức. Dĩ nhiên ai cũng thấy là nhờ tiến bộ của xã hội nhân loại ngày nay và nhờ các phần tử xã hội liên lạc chặt chẽ với nhau hơn, việc thông tin đã trở nên một cách rất hữu ích và nhiều khi cần thiết. Thật vậy, việc thông tin đúng lúc các biến cố và các sự kiện giúp cho từng cá nhân biết đầy đủ và liên tục các việc đó, như thế, chính họ có thể tham gia vào ích chung một cách hữu hiệu, và nhờ đó mọi người càng dễ dàng đóng góp vào việc thăng tiến toàn thể xã hội hơn. Vì vậy, xã hội nhân loại có quyền thông tin những gì thích hợp với con người – hoặc cá nhân hoặc liên kết với nhau trong đoàn thể – tùy theo hoàn cảnh từng người. Tuy nhiên, việc thực thi đúng đắn quyền này đòi việc truyền thông phải luôn luôn xác thực trong khi trình bày nội dung và phải đầy đủ mà vẫn giữ được công bình và bác ái. Ngoài ra, cách thức truyền thông cũng phải lương thiện và thích hợp, nghĩa là cả trong việc săn tin lẫn loan tin, tuyệt đối phải tuân giữ luật luân lý, các quyền lợi chính đáng và phẩm giá con người. Thật vậy, không phải mọi sự hiểu biết đều hữu ích, “còn bác ái thì xây dựng” (1Cr 8,1;IM 5).

- Vấn đề thứ hai là những tương quan giữa quyền lợi của nghệ thuật và tiêu chuẩn của luật luân lý. Vì những cuộc tranh luận thường xuyên về vấn đề này nhiều khi bắt nguồn từ những học thuyết sai lầm về luân lý và thẩm mỹ, nên Thánh Công Đồng tuyên bố mọi người phải tuyệt đối tuân giữ quyền ưu tiên của lãnh vực luân lý khác quan, bởi vì lãnh vực này là lãnh vực độc nhất trổi vượt và phối họp một cách thích đáng với mọi lãnh vực khác – dù là rất cao quí – của hoạt động con người, kể cả nghệ thuật nữa. Thật vậy, chỉ có lãnh vực luân lý mới liên hệ đến toàn diện bản tính con người, một tạo vật có lý trí mà Thiên Chúa đã tạo dựng và mời gọi vào đời sống siêu nhiên; vì nếu trung thành tuân giữ trọn vẹn lãnh vực luân lý, con người sẽ đạt tới hòan thiện và hạnh phúc đầy đủ (IM 5).

- Phải thận trọng trong việc trình bày các sự kiện xã hội: Việc tường thuật, mô tả hay trình bày điều xấu về phương diện luân lý, ngay cả bằng những phương tiện truyền thông xã hội, chắc chắn có thể giúp nhận biết và khám phá con người một cách sâu rộng hơn, giúp bày tỏ và biểu dương vẻ huy hoàng của điều Chân, điều Thiện, nếu người ta khéo đưa ra những hậu quả bi thảm tương xứng với điều ác. Tuy nhiên, để khỏi làm hại hơn là làm ích cho các tâm hồn, các hoạt động trên vẫn phải tuyệt đối tuân theo luật luân lý, nhất là nếu đề cập đến những vấn đề đòi phải thận trọng hay đến những gì dễ khích động dục vọng xấu xa của con người đã mang vết tội tổ tông (IM 7).

- Phải biết la chn đúng nhng gì lợi ích thực sự cho con người: Tất cả mọi người sử dụng các phương tiện nghĩa là những độc giả, khán giả và thính giả nhận được sự truyền thông qua các phương tiện đó, tùy theo sự lựa chọn cá nhân và tự do, đều có những bổn phận đặc biệt. Thật vậy, việc lựa chọn đúng đắn đòi họ phải cổ võ những gì có giá trị đạo đức, khoa học và nghệ thuật. Họ phải tránh những gì nên cớ hay làm dịp cho họ phải thiệt hại về phần thiêng liêng, hoặc có thể vì gương xấu mà làm cho người khác phải nguy hiểm, hoặc lại ngăn cản những việc truyền thông tốt mà cổ võ những truyền thông xấu: Điều này thường xảy ra khi người ta trả tiền cho những người khai thác những phương tiện này chỉ vì lý do kinh tài.

Vì thế, để chu toàn luật luân lý, chính những người sử dụng không nên quên bổn phận phải tìm hiểu đúng lúc những lập trường của cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề đó, và phải tuân giữ những lập trường đó theo tiêu chuẩn lương tâm ngay thẳng. Hơn nữa để chống lại những quyến rũ thiếu ngay chính một cách dễ dàng hơn, và để hoàn toàn bênh vực những ảnh hưởng tốt, họ phải chú tâm hướng dẫn và đào luyện lương tâm mình bằng những phương thế thích hợp (IM 9).

2. Huấn luyện về kỹ thuật, giáo thuyết và phong hóa

  1. . Việc huấn luyện kỹ thuật, giáo thuyết và phong hóa:

Trước hết phải huấn luyện giáo dân vững chắc về kỹ thuật, giáo thuyết và phong hóa, bằng cách tăng thêm số trường học, phân khoa và học viện, để các nhà báo, nhà soạn phim ảnh, soạn chương trình phát thanh phát hình, và những người liên hệ, có thể được huấn luyện đầy đủ, thấm nhuần tinh thân Kitô giáo, nhất là học thuyết xã hội của Giáo Hội. Cũng phải huấn luyện và giúp đỡ các diễn viên để họ dùng tài nghệ mình mà phục vụ xã hội nhân loại một cách thích hợp. Sau cùng phải tận tâm chuẩn bị các nhà phê bình văn chương, phim ảnh, phát thanh, phát hình…để mỗi người hòan toàn thấu triệt nghề nghiệp của mình . Lại phải chỉ dạy và khuyến khích họ đưa ra những nhận định luôn nhấn mạnh đúng mức khía cạnh luân lý.

  1. . Đưa việc huấn luyện vào các trường công giáo và chủng viện:

Để sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội này, những người sử dụng thuộc tuổi tác và văn hóa khác nhau, cần phải được huấn luyện về lý thuyết và thực hành một cách thích hợp và riêng biệt. Vì thế, trong các trường công giáo thuộc mọi cấp, trong các chủng viện và trong cả trong những nhóm tông đồ giáo dân, phải cổ võ, tăng gia và theo nguyên tắc luân lý Kitô giáo hướng dẫn các tổ chức có khả năng theo đuổi mục đích này, nhất là những tổ chức dành riêng cho giới trẻ. Để sớm đạt tới kết quả, lớp giáo lý cũng cần có phần trình bày, giải thích giáo thuyết và qui luật công giáo về vấn đề nà (IM 16).

Một số đức tính cần thiết cho việc sử dụng các phương tiện truyền thông

3. Xã hội, đặc biệt với Internet:

3.1. Sự thận trọng là cần thiết để thấy rõ những hệ quả tiềm năng dẫn đến sự thiện và sự dữ – trong phương tiện truyền thông này và để đáp trả cách sáng tạo với những cơ hội và thách đố của nó.

3.2. Công lý là cần thiết, đặc biệt công lý trong nỗ lực đóng lại khoảng cách điện số (digital divide) – khoảng cách giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin trong thế giới hôm nay. Điều này đòi hỏi một cam kết cho lợi ích chung của quốc tế không thua gì “sự toàn cầu hóa tình liên đới”.

3.3. Dũng cảm là cần thiết. Điều này có nghĩa là đứng dậy cho sự thật khi đối diện với chủ nghĩa tương đối hóa tôn giáo và luân lý, đứng dậy cho sự xả kỷ và quảng đại khi đối diện với dâm dục và tội lỗi. Và tự chế là cần thiết – một giải pháp kỷ luật tự giác cho khí cụ kỹ thuật phi thường này, Internet, cũng như việc dùng nó khôn ngoan và chỉ dùng cho điều thiện.[8]

V. Đức Kitô, một nhà truyền thông kiểu mẫu và chuẩn mực

1. Đức Kitô, một nhà truyền thông kiểu mẫu

Đức Giêsu là một kiểu mẫu cho những nhà truyền thông:”nhưng vào thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Hr 1,2); và Thánh Tử này truyền thông cho chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi tình yêu của Chúa Cha và ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.

“Khi ở trên trần gian, Đức Giêsu đã tự mặc khải như là một nhà truyền thông hoàn hảo. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đồng hóa mình cách tuyệt đối, với những kẻ phải đón nhận sự truyền thông của Người, và Nguời ban bố sứ điệp của Người không những bằng lời nói mà còn bằng cách sống toàn diện của Người. Người nói từ bên trong, nghĩa là, ngoài áp lực của dân chúng. Người rao giảng sứ điệp thần linh mà không sợ sệt hay thỏa hiệp. Người hòa nhập theo kiểu nói của dân chúng và theo cách suy nghĩ của họ. Và Người đã nói theo phạm trù của thời của họ” (Communio et Progressio 11).

Trong suốt đời sống công khai của Đức Giêsu, những đoàn lũ tập hợp nhau để nghe Người giảng dạy (Mt 8,1.18; Mc 2,2.4,1; Lc 5,1…) và Người dạy họ “như một Đấng có uy quyền” (Mt 7,29; Mc 1,22; Lc 4,32). Người dạy người ta về Chúa Cha và đồng thời lôi kéo họ về với Người “Tôi là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) và “ai thấy Tôi là thấy Cha” (Ga 14,9). Người không phí thời gian để nói lời vô ích hay là để bào chữa cho mình, dầu lúc Người bị cáo tội hay bị xử tử (Mt 26,63; 27,12-14; Mc 15,5; 15,61). Bởi vì “của ăn của Người “ là làm theo ý muốn của Chúa Cha, Đấng sai Người” (Ga 3,34), và tất cả những gì Người nói hay làm đều được nói và làm theo chiều hướng đó.

Thường thì bài dạy của Đức Giêsu lấy hình thức dụ ngôn và những câu chuyện sống động diễn tả những chân lý sâu sắc, bằng những từ ngữ đơn sơ và đời thường. Không những lời nói mà cả việc làm của Người, cách riêng các phép lạ, là những động tác truyền thông, chỉ rõ căn tính của Người và biểu lộ quyền năng Thiên Chúa (EN 12). Trong những truyền thông của Người, Người bày tỏ lòng tôn tọng đối với kẻ nghe, sự thiện cảm đối với hoàn cảnh và các nhu cầu của họ, lòng thương xót đối với kẻ đau khổ (Lc 7,13). Và một sự quyết tâm dứt khoát nói với họ những điều họ cần nghe, nói một cách bắt họ phải chú ý và giúp họ đón nhận sứ điệp, mà không cưỡng ép hay thỏa hiệp, phỉnh gạt hay thao túng. Người mời những kẻ khác mở rộng lòng trí của họ cho Người, vì biết rằng điều đó là cách thế lôi kéo họ về với Người và với Chúa Cha (Ga 3,1-15; 4,7-26).

Đức Giêsu dạy rằng sự truyền thông là một hành vi luân lý: “người tốt thì rút ra những cái tốt từ kho tàng tốt của mình, kẻ xấu thì rút ra những cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các ông hay: đến ngày phán xét người ta phải trả lời về mọi lời nói vô ích mình đã nói, vì lời nói của anh mà anh được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,34-37). Người đã nghiêm túc cảnh cáo việc làm gương mù cho “kẻ bé mọn”, và cảnh cáo rằng ai làm như thế ‘thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn” (Mc 9,42; Mt 18,6; Lc 17,2). Đức Giêsu hoàn toàn trong trắng, một con người mà người ta có thể nói “không bắt được sự lừa đảo trong môi miệng Người” và còn hơn nữa “bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại; chịu đau khổ mà chẳng hề ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bằng” (1Pr 2,22-23). Người nhấn mạnh đến sự trong trắng và chân thật nơi kẻ khác, còn kết tội sự giả hình, bất lương – bất cứ thứ truyền thông nào cong quẹo và xấu xa; “nhưng hễ có thì nói có, không thì phải nói không; thêm thắt điều gì là ác quỉ’(Mt 5,27).[9]

2. Đức Kitô, một nhà truyền thông chuẩn mực

Đức Giêsu là kiểu mẫu và là tiêu chuẩn của sự truyền thông của chúng ta. Đối với những ai dấn thân vào việc truyền thông xã hội, hoặc là kẻ vạch ra chính sách hay là kẻ truyền thông chuyên nghiệp hay là khán thính giả hay là bất cứ vai trò nào, câu kết luận thật rõ ràng: “Bởi thế một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau…Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,25.29). Việc phục vụ con người, việc xây dựng cộng đồng nhân bản dựa trên tình liên đới công bằng và tình yêu, và nói lên sự thật về sự sống nhân bản và về sự kết liễu nó trong Chúa, đó là những việc làm đã, đang và sẽ là trọng tâm của nền đạo đức trong các phương tiện truyền thông.[10]

VI. Giáo Hội kêu gọi mọi người cộng tác vào sứ mệnh cao cả này

Thật đáng hổ thẹn cho con cái Giáo Hội, đã lãnh đạm để cho việc rao giảng Lời cứu rỗi bị đình trệ, cản trở vì những khó khăn kỹ thuật hay thiếu phương tiện tài chánh, thật sự rất to tát, mà những phương tiện truyền thông xã hội đòi phải có. Vì thế Thánh Công Đồng nhắc lại cho họ bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp các nhật báo công giáo, các tạp chí, các tổ chức phim ảnh, các đài và các chương trình phát thanh phát phát hình nhằm mục đích là để phổ biến và bảo vệ sự thật, và cung cấp nền giáo dục Kitô giáo cho xã hội loài người. Đồng thời Thánh Công Đồng khẩn khoản mời gọi các đoàn thể và cá nhân có quyền hành rộng lớn trong lãnh vực kinh tế và kỹ thuật, hãy sẵn lòng và rộng rãi dùng tài nguyên và kinh nghiệm của mình để nâng đỡ những phương tiện này khi chúng phục vụ văn hóa đích thực và việc tông đồ (IM 17).

Hơn nữa Thánh Công Đồng tin tưởng rằng mọi con cái Giáo Hội sẽ tự nguyện đón nhận và cẩn thận gìn giữ những giáo huấn và tiêu chuẩn trong sắc lệnh này. Như thế khi sử dụng những phương tiện đó, họ không bị thiệt hại, cũng như muối và ánh sáng, họ ướp trái đất và soi sáng thế gian. Ngoài ra Thánh Công Đồng mời gọi mọi người thiện chí, nhất là những người điều khiển các phương tiện trên, hãy chăm lo qui hướng chúng về mục tiêu duy nhất là giúp ích cho xã hội loài người, vì vận mệnh của xã hội nhân loại ngày càng lệ thuộc vào việc sử dụng đúng đắn những phương tiện này. Nhờ vậy, cũng như xưa Danh Chúa đã được tôn vinh qua những công trình nghệ thuật cổ kính thì nay Ngài cũng được tôn vinh qua những phát minh mới, đúng như lời thánh Tông Đồ: “Đức Giêsu Kitô hôm qua cũng chính là Đức Giêsu Kitô hôm nay và cho đến muôn ngàn đời” (Hr 13,8).

PHẦN HAI: GIÁO HỘI VÀ INTERNET

I. Những đặc tính của Internet

Internet có một số tính năng gây ấn tượng sâu sắc. Nó tức thời, trực tiếp, toàn cầu, phân quyền (decentralizised), giao tiếp (interactive), có thể mở rộng vô hạn về nội dung và phạm vi, linh hoạt và có thể điều chỉnh ở một mức độ đáng kể. Internet là bình quyền (egalitarian), theo nghĩa là bất cứ ai với thiết bị cần thiết và một năng khiếu kỹ thuật khiêm nhường cũng có thể hiện diện cách tích cực trong không gian điện toán, công bố thông điệp của mình cho thế giới, và đòi hỏi được lắng nghe. Nó cho phép các cá nhân tham dự một cách ẩn danh, được chọn lựa vai trò, và hành động theo trí tưởng tượng; và cũng cho phép việc gia nhập vào cộng đồng với những người khác và dự phần vào việc chia sẻ. Theo sở thích của người sử dụng, họ có thể tích cực tham gia hoặc để bị thu hút cách thụ động vào trong “một thế giới quá chú ý đến mình, tự qui chiếu về mình, của những kích thích với những hiệu ứng gần như mơ màng”. Internet có thể được dùng để phá tan đi sự cô lập của các cá nhân và các tập thể hay còn khoét sâu thêm sự cô lập này.[11]

II. Những nét tích cực của Internet

1. Mở ra một khả năng truyền thông rộng lớn

Sự bùng nổ của kỹ thuật thông tin đã gia tăng khả năng truyền thông của một số cá nhân và tập thể có thuận lợi lên gấp nhiều lần. Internet có thể phục vụ con người khi tự do và dân chủ được dùng có trách nhiệm, mở rộng những chọn lựa có thể trong cuộc sống muôn mầu, mở ra những chân trời giáo dục và văn hóa, phá tan chia rẽ, đề cao sự phát triển con người trong nhiều cách thế khác nhau. “Sự di chuyển tự do của hình ảnh và văn bản trên phạm vi toàn cầu đang chuyển hóa không chỉ những quan hệ chính trị và kinh tế giữa các dân tộc, nhưng ngay cả nhận thức của chúng ta về thế giới. Nó mở ra một loạt những khả năng cho đến nay vẫn chưa thể nghĩ ra”. Khi được đặt trên những giá trị cùng chia sẻ bắt nguồn từ bản tính của con người, cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa thực hiện bởi internet và các phương tiện truyền thông xã hội khác có thể là “một phương tiện thuận lợi cho việc xây dựng nền văn minh tình thương”.[12]

2. Những lợi ích cho tôn giáo

2.1. Chuyển tải thông tin, tài liệu cũng như những hoạt động của Giáo hội

Các phương tiện truyền thông đem đến những ích lợi quan trọng và những thuận lợi từ góc độ tôn giáo: “chúng chuyển tải tin tức và thông tin về các biến cố tôn giáo, các ý tưởng và các nhân cách. Chúng được dùng như phương tiện truyền bá Tin Mừng và giáo lý. Ngày qua ngày, chúng đem đến sự linh hứng, khích lệ và những cơ hội cho những cá nhân bị bó gối trong nhà hay trong những cơ sở”. Nhưng trổi vượt trên tất cả các phương tiện truyền thông, internet đem lại những ích lợi rất đặc biệt. Nó cho phép người ta trực tiếp và tức khắc tiếp cận những tài nguyên tôn giáo và tâm linh quan trọng – những thư viện khổng lồ, những nhà bảo tàng và những nơi thờ phượng, những văn kiện giáo huấn của Huấn Quyền, những bài viết của các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh và kho tàng khôn ngoan tôn giáo của nhiều thời đại. Internet có một khả năng đáng kể vượt qua khoảng cách và và sự cô lập, giúp con người có thể tiếp xúc với những người có thiện chí có cùng tư tưởng, những người gia nhập vào những cộng đoàn đức tin ảo (virtual communities of faith) để khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau. Giáo Hội có thể thực thi một sự phục vụ quan trọng cho người công giáo cũng như không công giáo bằng sự lựa chọn và truyền đi những dữ liệu hữu ích qua phương tiện truyền thông này.

Internet có liên quan đến nhiều hoạt động và chương trình của Giáo Hội – phúc âm hóa, bao gồm cả tái phúc âm hóa và tân phúc âm hóa và những hoạt động truyền giáo truyền thống, giáo lý và các hình thức giáo dục khác, tin tức và thông tin, hộ giáo, chăn dắt và quản trị, và các hình thức tư vấn mục vụ và khải đạo tâm linh. Mặc dù thực tại ảo (virtual reality) của không gian điện toán (cyberspace) không thể thay thế cho việc cộng đoàn giao tiếp cá nhân thực sự, cho sự hiện diện của Chúa trong các bí tích và trong phụng vụ, hay cho sự công bố tức khắc và trực tiếp Tin Mừng, nó vẫn có thể bổ sung, lôi kéo người ta đến một kinh nghiệm đầy đủ hơn của cuộc sống đức tin và làm phong phú đời sống đạo của những người dùng nó. Nó cũng đem đến cho Giáo Hội một phương tiện để truyền thông cho những nhóm cụ thể – những người trẻ và những người mới thành niên, những người già và những người bị bó gối trong nhà, những người sống ở những miền xa xôi, các thành viên của các thực thể tôn giáo – những người mà nếu không có Internet rất khó có thể tiếp cận.[13]

2.2. Giúp Giáo Hội chu toàn sứ vụ

Một điều quan trọng nữa là mọi người ở mọi cấp của Giáo Hội cần dùng Internet cách sáng tạo để chu toàn bổn phận của họ và giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình. Lui lại một cách nhút nhát vì sợ kỹ thuật hay vì một lý do nào khác là không thể chấp nhận, khi tính đến những khả năng rất tích cực của Internet. Những phương pháp đem lại tiện nghi truyền thông và đối thoại giữa các thành phần của Giáo Hội có thể củng cố những mối dây hiệp nhất giữa họ. Việc tiếp cận tức khắc với thông tin giúp Giáo Hội có thể đào sâu thêm đối thoại với thế giới đương đại. Giáo Hội có thể sẵn sàng hơn để cho thế giới biết về niềm tin của mình và giải thích những lý do cho lập trường của mình về bất cứ vấn đề và biến cố nào. Giáo Hội có thể nghe rõ ràng hơn tiếng nói của ý kiến công chúng, và bước vào một cuộc tranh luận liên tục với thế giới quanh mình, và như thế dấn thân trực tiếp hơn trong nỗ lực tìm kiếm chung những giải pháp cho rất nhiều những vấn đề căng thẳng của nhân loại.[14]

2.3. Giáo Hội trả lời những thắc mắc về con người và đời sống con người

Nó cũng có thể giúp nhữnng người nam người nữ trong sự tìm kiếm lâu dài của họ để hiểu biết chính mình. Trong mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta, người ta thường hỏi cũng những câu hỏi căn bản: “tôi là ai ? Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu ? Tại sao có sự dữ ? Cái gì diễn ra sau cuộc sống này ? Giáo Hội không thể áp đặt những câu trả lời, nhưng Giáo Hội có thể – và phải – công bố với thế giới những câu trả lời mà Giáo Hội đã nhận được, và hôm nay, như luôn mãi, Giáo Hội mang đến một Đấng tối hậu trả lời thoả mãn những câu hỏi sâu xa nhất về cuộc đời – Đức Giêsu Kitô, Đấng mặc khải trọn vẹn cho con người về chính Người và đưa ra ánh sáng ơn gọi cao trọng nhất của Người. Như chính thế giới hôm nay, thế giới truyền thông, bao gồm cả Internet, đã được mang bởi Đức Kitô, dù còn lộn xộn nhưng thực sự, vào bên trong biên giới của Nước Chúa và đặt để cho việc phục vụ lời cứu độ. Tuy nhiên thay vì giảm bớt những lo toan phát triển trái đất này, niềm trông mong một thế giới mới cần thúc giục chúng ta, vì chính nơi đây thân thể của một nhân loại mới lớn dần, tiên báo cách này cách khác thời đại đang tiến đến gần.[15]

2.4. Internet trong nội bộ Giáo Hội

Giáo Hội cũng cần phải hiểu và dùng Internet như là một phương tiện truyền thông nội bộ. Điều này đòi hỏi chúng ta giữ một nhận thức rõ ràng về đặc tính của Internet như một phương tiện truyền thông trực tiếp, tức thời, giao tiếp (interactive) và dự phần (participatory). Sự giao tiếp hai chiều của Internet đang làm mờ đi sự phân biệt cổ điển giữa những người truyền thông và những người được truyền thông, và tạo ra một tình trạng, theo đó, mọi người, ít nhất là về triển vọng , có thể đóng cả hai vai trò. Đây không phải là loại truyền thông một chiều, rót từ trên xuống như trong quá khứ. Khi càng ngày càng nhiều người trở nên quen thuộc với đặc điễm này của Internet trong các lãnh vực khác của đời sống, họ cũng có thể được mong đợi tìm kiếm điều này trong lãnh vực tôn giáo và Giáo Hội.

Kỹ thuật này là mới, nhưng trong ý tưởng thì không mới. Công Đồng Vaticanô II nói rằng các thành viên của Giáo Hội cần giãi bày cho các mục tử của họ “những nhu cầu và ước muốn với sự tự do và tự tín thích hợp của con cái Chúa và anh em của Đức Kitô. Thật vậy, theo hiểu biết, khả năng hay vị trí, người tín hữu không những có thể mà đôi khi có trách nhiệm phải phát biểu ý kiến về những vấn đề liên hệ đến lợi ích của Giáo Hội. Communio et Progressio nhận xét rằng một“thân thể sống động”, Giáo Hội “cần ý kiến của công chúng để nuôi dưỡng việc cho và nhận giữa các thành viên”. Mặc dù những sự thật đức tin “không cho phép những diễn giải tùy tiện”, chỉ dẫn mục vụ này ghi nhận” một lãnh vực to lớn nơi các thành viên của Giáo Hội có thể bày tỏ quan điểm của họ.

Những ý tưởng tương tự như thế cũng được nêu ra trong Giáo Luật cũng như trong các tài liệu gần đây của Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội. Aetatis Novae gọi truyền thông hai chiều và ý kiến công chúng là “một trong những cách thế nhận thức một cách cụ thể tính cách của Giáo Hội như communio. Văn kiện Đạo Đức Trong Truyền Thông cho biết: “Một dòng chảy thông tin và quan điểm hai chiều giữa các mục tử và giáo dân. Sự tự do phát biểu nhạy cảm với sự hưng thịnh của cộng đoàn và vai trò của Huấn Quyền trong việc nuôi dưỡng nó. Và những ý kiến công chúng có trách nhiệm, tất cả là những biểu hiện quan trọng của “quyền căn bản về đối thoại và thông tin bên trong Giáo Hội. Internet đem đến một phương tiện kỹ thuật hiệu quả để hiện thực hóa viễn kiến này.

Do đó, đây là một khí cụ có thể dùng một cách sáng tạo cho nhều khía cạnh của quản trị và chăn dắt. Cùng với việc mở ra những kênh cho việc phát biểu ý kiến công khai, chúng ta có trong đầu những thứ này như những chuyên viên về cố vấn, chuẩn bị cho những buổi hội họp, và thực hành sự hợp tác trong và giữa các giáo xứ, và các cơ quan tôn giáo trên phạm vi địa phương, quốc gia và quốc tế.[16]

III. Những giới hạn của Internet

1. Internet là một phương tiện, có tính cách trợ giúp chứ không phải là cùng đích

Giáo Hội tiếp cận phương tiện mới mẻ này với thái độ thực tiễn và tin tưởng. Cũng như những phương tiện truyền thông khác, đây là một phương tiện chớ không phải là một cùng đích. Internet có thể ban tặng những cơ hội tuyệt vời để loan báo Tin Mừng nếu được sử dụng cách thành thạo và khi ta ý thức rõ đến mặt mạnh và mặt yếu của nó. Trước tiên, khi cung cấp những thông tin và gợi lên những thích thú, nó tạo nên sự gặp gỡ ban đầu với sứ điệp Kitô giáo, đặc biệt giữa những người trẻ càng ngày càng hướng về thế giới máy tính như là cửa sổ của thế giới. Vì thế điều quan trọng là cộng đoàn Kitô hữu suy nghĩ về những cách thức thực tiễn để giúp những người mới tiếp cận Internet chuyển từ thế giới ảo của máy tính đến thế giới thực của cộng đoàn Kitô hữu.

Tiếp đó, Internet cũng có thể cung cấp một hình thức bước đi theo mà việc loan báo Tin Mừng đòi hỏi. Đặc biệt trong một nền văn hóa không mang lại cho ta những trợ giúp, đời sống Kitô hữu cần đến những chỉ dẫn và giáo lý vững chắc, và đó có lẽ là lãnh vực mà Internet có thể cung cấp những trợ lực quí báu. Đã có trên mạng biết bao nguồn thông tin, tài liệu và giáo dục về Giáo Hội, lịch sử và truyền thống, giáo thuyết và dấn thân của Giáo Hội trong mọi lãnh vực trên mọi nơi của thế giới. Vì thế, rõ ràng rằng trong khi Internet không thể thay thế kinh nghiệm sâu xa với Thiên Chúa mà chỉ đời sống sinh động, phụng vụ và bí tích mới có thể trao tặng, chắc chắn nó cung cấp một bổ sung và trợ lực vô song cho việc chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô trong cộng đoàn và nâng đỡ người mới tin trong cuộc hành trình đức tin vừa mới bắt đầu.[17]

2. Internet trao tặng những kiến thức chứ không dạy những giá trị

Tuy nhiên có một số câu hỏi cần thiết và hiển nhiên nảy sinh khi sử dụng Internet để loan báo Tin Mừng. Quả thế, bản chất của Internet là cung cấp một nguồn thông tin hầu như vô tận, mà phần lớn chỉ có tính cách nhất thời. Trong một nền văn hóa được nuôi dưỡng bằng cái chóng qua, người ta dễ có nguy cơ tin rằng chính những sự kiện, chứ không phải những giá trị mới quan trọng. Internet trao tặng những kiến thức rộng rãi chứ không dạy về các giá trị. Và khi các giá trị bị coi thường, nhân tính của chúng ta bị giảm sút và con người dễ dàng quên đi phẩm gía siêu việt của mình. Dầu nó có khả năng vô biên làm những điều tốt đẹp, nhưng một vài cách thế đê hèn và gây hại mà Internet có thể sử dụng là điều mà mọi người đều thấy, và chính quyền chắc chắn có trách nhiệm bảo đảm rằng công cụ tuyệt diệu này phục vụ ích chung và không trở thành một nguồn gây nguy hại.[18]

3. Internet cung cấp những cái hữu hình, ích lợi có giá trị tức thời

Hơn thế nữa, Internet xác định lại cách tận căn mối tương quan tâm lý của một con người đối với thời gian và không gian. Người ta chú ý đến những cái hữu hình, ích lợi và có giá trị tức thời: Có thể thiếu cái thúc đẩy đào sâu tư tưởng và suy tư. Quả thế, con người rất cần đến những khoảnh khắc thinh lặng nội tâm để suy tư và xem xét cuộc sống và mầu nhiệm của nó, và dần dần làm chủ cách trưởng thành chính mình và thế giới bao quanh. Hiểu biết và khôn ngoan là kết quả của việc chiêm ngưỡng thế giới, chứ không đến từ sự tích lũy đơn thuần các sự kiện, dầu gây thích thú như thế nào đi chăng nữa. Chúng là kết quả của một cái nhìn thấu suốt ý nghĩa sâu xa của sự vật trong tương quan với nhau hay với toàn thể thực tại. Hơn nữa, như một diễn đàn trong đó mọi sự được chấp nhận một cách thực tế và hầu như không có gì bền vững, Internet ủng hộ một lối suy nghĩ mang tính tương đối và đôi khi khuyến khích trốn chạy khỏi trách nhiệm và dấn thân cá nhân.

Trong một bối cảnh như thế, làm sao chúng ta có thể trau dồi sự khôn ngoan phát xuất không chỉ từ thông tin nhưng từ suy tư, sự khôn ngoan biết cách phân biệt phải trái và duy trì bậc thang giá trị phát sinh từ sự khác biệt đó.[19]

4. Internet không thay thế sự tiếp xúc cá nhân và nhân bản

Nhờ Internet, người ta nhân lên những cơ hội tiếp xúc theo những cách thức mà cho tới nay không thể tưởng tượng được. Sự kiện ấy mở ra những khả năng kỳ diệu truyền bá Tin Mừng. Nhưng cũng phải nhận thức rằng những mối tương quan được thiết lập nhờ các phương tiện điện tử không bao giờ có thể thay thế sự tiếp xúc trực tiếp và nhân bản, cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng đích thực. Bởi vì việc loan báo Tin Mừng luôn tùy thuộc chứng tá cá nhân của người được sai đi loan báo Tin Mừng (Rm 10,14-15). Giáo Hội phải làm như thế nào đây để chuyển từ loại tiếp xúc nhờ Internet đến sự giao tiếp sâu xa hơn mà việc loan báo Đức Kitô đòi hỏi ? Chúng ta phải phát triển như thế nào sự tiếp xúc đầu tiên và trao đổi thông tin do Internet đem lại.[20]

5. Một không gian đích thực của Internet

Internet làm cho hàng tỉ hình ảnh xuất hiện trên hàng triệu màn hình máy tính trên khắp địa cầu. Từ giải ngân hà hình ảnh và âm thanh đó, khuôn mặt Đức Kitô có hiện lên và tiếng nói của Đức Kitô có được nghe không ? Bởi vì chỉ khi khuôn mặt của Người được thấy và tiếng nói của người được nghe mà thế giới sẽ biết đến Tin Mừng cứu chuộc. Đó là mục tiêu của việc loan báo Tin Mừng. Và đó chính là điều sẽ làm cho Internet trở thành một không gian đích thực của con người, bởi vì nếu không có chỗ cho Đức Kitô thì cũng không có chỗ cho con người. Vì thế, trong ngày Truyền Thông thế giới này, tôi dám kêu gọi toàn thể Giáo Hội dũng cảm bước qua ngưỡng cửa mới mẻ này, để ra khơi trong biển sâu là mạng máy tính, để hôm nay cũng như trong quá khứ, sự dấn thân cao cả cho Tin Mừng và văn hóa có thể tỏ cho thế giới “vinh quang của Thiên Chúa trên khuôn mặt Đức Kitô’ (2Cr 4,6).[21]

Các chữ viết tắt

AG : Ad Gentes

EN : Evangelii Nuntiandi

RM : Redemptoris Missio

EA : Ecclesia in Asia

LG : Lumen Gentium

GS : Gaudium et Spes

PO : Presbyterorum Ordinis

CT : Catechesi Tradendae

DV : Dei Verbum

IM : Inter Mirifica

[1] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 3

[2] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 3

[3] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 3

[4] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, vấn đề Đạo Đức trong Truyền Thông số 6

[5] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 13

[6] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 16

[7] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 19

[8] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 12

[9] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 32

[10] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 3 3

[11] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 7

[12] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 9

[13] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 5

[14] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội,văn kiện Giáo Hội và Internet số 10

[15]Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo Đức trong Internet số 18

[16] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo Đức trong Internet số 6

[17] sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II ngày Quốc Tế Truyền Thông 36 số 3

[18] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo Đức trong Internet số 4

[19] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo Đức trong Internet số 4

[20] Hội Đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội, Đạo Đức trong Internet số 5

[21]sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II ngày Quốc Tế Truyền Thông 36 số 6