CHÚA CHIÊN LÀNH

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 64 | Cật nhập lần cuối: 5/14/2023 9:19:23 AM | RSS

CHÚA CHIÊN LÀNH

(Ga 10, 1-10)

I.TÀI LIỆU GỢI Ý

1.Không hình ảnh nào đẹp bằng hình ảnh Chúa Chiên Lành

1.1.Hình ảnh cũng như ngôn từ Chúa chiên, bàng bạc trong Kinh Thánh

Đồng bằng miền trung Palétin từ Bethel tới Hebron dài 35 dặm, rộng từ 14-17 dặm. Phần lớn gồ ghề, hợp chăn nuôi hơn nông nghiệp. Đời sống rất cực nhọc vất vả. Không bao giờ thấy chiên mà không có chủ, chủ chăn không bao giờ vắng mặt. Đồng cỏ ít, chiên thường lang thang, nên phải luôn luôn canh chừng. Hai bên cao nguyên hẹp là hai dẫy dốc xuống những thung lũng hiểm trở, chiên rất dễ bị lạc. Người chăn chiên không những phải luôn luôn canh chừng với sự nguy hiểm vì thú dữ, nhất là chó sói lại còn trộm cắp nơi rừng hoang. George Adam Smith, một lần đi thăm Palestin, kể lại: trên vài bãi hoang, ban đêm, những đàn sói Phi Châu (hyaenas) rống, những người chăn chiên đứng dựa trên gậy, không ngủ, chịu lạnh, nhìn xa, theo dõi từng con chiên... nhìn thế, ta mới thấy chủ chiên là hình ảnh hiển hiện nổi bật trong lịch sử dân tộc, mới hiểu tại sao họ xưng các vua của họ là chủ chiên, cho các vua là biểu tượng của quan phòng, mới hiểu tại sao Chúa Kitô coi mình là mẫu mực của sự hy sinh. Luôn luôn canh chừng, can đảm không sợ, kiên trì quí mến đoàn chiên, từng con, là những đặc tính của người chăn chiên....[1]

1.2.Cựu Ước thường tả Thiên Chúa dưới hình ảnh người chủ chiên

Cựu Ước thường tả Thiên Chúa dưới hình ảnh người chủ chiên (Tv 23:1; 77:20; 79:13; 80:1; 95:7; 100:3; Is 40:11; Gr 23:1-4; Ed 34). Tân Ước cũng thế. Người là chủ chiên, Đấng liều mình đi tìm và giải cứu con chiên lạc (Mt 18:12; Lc 15:4). Người thương xót dân chúng vì chúng là những con chiên không người chăn (Mt 9:36; Mc 6:34). Các môn đệ của Chúa là đoàn chiên nhỏ (Lc 12:32). Khi Chúa, chủ chăn bị đánh đập, đoàn chiên của Người bị tan tác (Mc 14:27; Mt 26:31). Người là chủ chiên các linh hồn (1Pt 2:25) và là chủ chiên vĩ đại (Dt 13:20). Cũng như hình ảnh trong Cựu Ước, những người lãnh đạo trong Giáo Hội ngày nay là những chủ chiên, và dân chúng là đoàn chiên. Người lãnh đạo phải ‘chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy... đừng thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng...’ (1Pt 5:2-3). Phaolô thúc giục các bô lão thành Êphêsô hãy cẩn thận coi đoàn chiên Thánh Thần đã trao phó cho họ (Cv 20:28). Lời truyền sau cùng của Chúa Giêsu cho Phêrô là phải nuôi chiên con chiên mẹ (Ga 21:15- 19). Chính danh từ chủ chăn (Ep 4:11), pastor, La Ngữ, có nghĩa là chủ chiên. Người Do Thái có truyền thuyết đẹp giải thích tại sao Thiên Chúa chọn Môsê làm người lãnh đạo dân của Người. ‘Hồi chăn chiên cho bố vợ, một con chiên bị lạc, Môsê đi mãi tới khe suối mới thấy nơi có giếng. Vác chiên trên vai đem về, Môsê nói ‘Tao không biết mày lạc là vì khát, chắc mày mệt lắm’. Vác chiên trên vai đem về. Lúc đó, Thiên Chúa nói với ông ‘vì ngươi thương đem con chiên của loài người về; ngươi sẽ chăn dẫn đoàn chiên Ítraen của Ta’. Chúa chiên là hình ảnh tình yêu tỉnh thức, nhẫn nại không ngừng nghỉ Chúa dành cho ta; và cũng là hình ảnh về bổn phận ta phải có với đồng loại, nhất là những ai giữ trọng trách trong Giáo Hội. 1.3.Người chăn chiên tại Palestin nuôi chiên khác với cách ta nuôi chiên

Muốn biết rõ hình ảnh của họ, ta phải nhìn vào người chăn chiên và cách họ thường sinh hoạt. Dụng cụ của họ rất đơn giản. Một túi đeo, bị làm bằng da thú, dùng đựng đồ ăn, bánh, trái cây khô, vài trái vả và pho mát, một cái ná. Có người giỏi dùng ná đến nỗi họ ‘có thể quăng hòn đá vào sợi tóc trên đầu mà không sai’ (Tl 20:16). Họ dùng ná để tấn công và phòng thủ với cách rất ngộ nghĩnh. Tại Palestin không có chó canh chiên. Khi muốn đuổi chiên ngoài xa, người chăn chiên lấy hòn đá lắp vào ná quăng trước mặt con chiên. Chiếc gậy ngắn, cuối gậy có những đinh, đeo lưng để giữ mình, chống lại thú dữ cũng như trộm cắp. Chiếc roi giống cái móc dùng để bắt hay kéo chiên về nếu đi lạc, cũng dùng chắn ngang cửa để chiên chui qua vào chuồng (Ed 20:37; Lv 27:32).[2]

1.4.Liên hệ giữa chủ chiên với chiên cũng khác

Tại Anh, chiên nuôi để làm thịt; tại Palestin chiên nuôi để lấy lông, vì thế chiên thường sống nhiều năm với chủ nên cũng có tên để chủ chiên gọi. Thường những tên đó có tính cách diễn tả như con ‘chân nâu’, ‘tai đen’. Tại Palestin, chủ chăn đi trước, con chiên theo sau. Đi trước để kiểm soát lối đi có an toàn không. Như có người du lịch nói anh thấy chủ chiên dẫn đoàn chiên đi qua cái suối ra sao. Khi chiên không muốn qua, người chăn chiên liền bế một con qua suối. Khi chiên mẹ thấy chiên con đã ở bên kia, chiên mẹ phải qua, thế là cả đàn cũng theo. Chiên biết và hiểu tiếng chủ chăn, quả rất đúng và không bao giờ chiên nghe tiếng kẻ lạ.[3]

1.5.Gọi đàn chiên

H.V.Morton diễn tả cách người chăn chiên gọi chiên: “đôi khi họ gọi chiên bằng tiếng hát lớn, dùng những từ ngữ tôi không hề nghe trong đời. Lần thứ nhất tôi nghe ngôn ngữ đó từ đồi đằng sau Giêrikhô. Con chiên đầu đàn đã qua thung lũng và đang leo lên bờ bên kia trong khi đoàn chiên vẫn mê man gặm cỏ. Anh cất tiếng gọi, bằng giọng như thần Pan thốt lên từ đồi núi Hy Lạp. Thật là bí hiểm lạ lùng vì không giống tiếng nào của loài người. Đó là những tiếng của loài vật xếp đặt phát ra một cách thứ tự. Vừa nghe, cả đoàn lao xao, một hai con vểnh tai, rồi lại cúi xuống gặm tiếp. Lúc ấy người chăn lại gọi một tiếng, rồi cười khặc khặc một cách kỳ lạ. Lập tức, con đầu đàn, cổ đeo nhạc, không ăn, bỏ đoàn, chạy qua thung lũng, lên dốc theo người chăn chiên. Người chăn chiên cùng con đầu đàn cứ tiếp đi khuất dạng. Bỗng cả đoàn sợ hãi, ngưng ăn. Chúng ngước mắt tìm người chăn chiên. Không thấy, cũng không thấy con đầu đàn. Cùng lúc, tiếng cười người chăn chiên lại từ xa vọng lại, khiến cả đoàn ùa chạy qua thung lũng rồi lên đồi theo người chăn chiên’[4]

W.M.Thomson, trong The Land and the Book, cũng kể tương tự “Người chăn chiên thỉnh thoảng lại gọi chiên, nhắc chúng sự hiện diện của mình. Nếu là tiếng chủ, chúng tiếp gặm cỏ và theo, nhưng nếu là tiếng lạ, chúng ngưng ăn, ngểnh đầu, và nếu tiếng lạ còn tiếp tục, chúng quay đầu bỏ chạy. Tôi đã thấy mấy lần như vậy’. Đó chính là hình ảnh Gioan nói. H.V.Morton nói ông thấy một cảnh tượng trong hang gần Belem. Hai người chăn chiên lùa chiên vào một chuồng chung nghỉ đêm. Tất nhiên hai đoàn trà trộn nhau. Sáng sau, một trong hai người đứng từ xa, gọi (bằng tiếng riêng). Vậy mà con nào con ấy, nghe biết, ra đi theo anh. Chiên ở Palestin còn biết nhẩy theo nhịp nhanh chậm tùy tiếng huýt của chủ... mỗi chi tiết về đời sống người chăn chiên đều phản ảnh chân dung người Chủ Chiên Nhân Lành, mà con chiên nhận biết tiếng cũng như chủ chăn săn sóc không ngừng cho từng con chiên.[5]

2.‘Tôi là cửa chuồng chiên’

Người Do Thái không hiểu, nên Chúa nói rõ Người là chủ chiên. Người bắt đầu: ‘Tôi là cửa chuồng chiên’. Trong dụ ngôn này Chúa nói về hai thứ chuồng. Chuồng chung trong làng, thường có cửa chắc, có khóa. Chúa nói về loại chuồng này (câu 2-3). Mùa hè, có thứ chuồng ngay ngoài đồng; chuồng làm mỏng manh, rào chung quanh, không có bất cứ loại cửa nào. Đêm đến, chủ chăn nằm ngay ngang lối ra vào, chiên ra vào phải bước qua anh, cửa ở đây chính là anh chăn chiên. Chúa nghĩ về cửa này khi nói ‘Tôi là cửa’; qua Người và chỉ qua Người, con người mới tới Thiên Chúa. “Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:18); “Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10:20).[6]

3. Chúa Giêsu mở đường cho Thiên Chúa

Chúa Giêsu mở đường tới Thiên Chúa. Cho đến khi Chúa Giêsu đến, tốt nhất con người chỉ có thể nghĩ đến Thiên Chúa như Đấng xa lạ, hay xấu nhất như kẻ thù nghịch. Chúa Giêsu đến tỏ cho con người Thiên Chúa như thế nào, và mở đường tới Thiên Chúa. Chúa Giêsu là cửa duy nhất, qua đó con người có thể tới đến Thiên Chúa. Để diễn tả thế nào là lối vào tới Thiên Chúa, Chúa Giêsu dùng kiểu nói ‘ra, vào’ người Do thái rất quen thuộc. Người nói qua Người ta có thể vào hay ra. Vào ra cách bình an là cách người Do thái diễn tả đời sống an bình an toàn. Ra vào mà không lo sợ có nghĩa là quốc gia được an bình, luật lệ và trật tự là trên hết, người dân được hưởng an toàn trọn vẹn. Người lãnh đạo quốc gia là người đem dân ra vào an toàn (Ds 27:17); người vâng lời Thiên Chúa thì được kể là có phúc khi vào khi ra (Đnl 28:6); con trẻ là người chưa biết tự mình ra vào (1V 3:7); tác giả Thánh Vịnh chắc chắn là mình được Thiên Chúa gìn giữ khi ra khi vào (Tv 121:8). Một khi con người khám phá, nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa thế nào, một cảm giác an toàn bình an mới xâm nhập vào cuộc đời. Nếu cuộc đời được biết như ở trong tay Thiên Chúa, mọi ưu tư sợ hãi biến mất. Chúa nói: những kẻ đến trước Người, là những kẻ trộm cướp. Tất nhiên Chúa không nói về các tiên tri, những vị anh hùng, mà về những kẻ hứa nếu theo họ, họ sẽ đem lại thời vàng son... đó là những lời tuyên bố của những kẻ nổi loạn. Họ tin rằng con người phải lội qua máu để đến thời vàng son. Chính vào thời đó, sử gia Gioxép nói có hàng ngàn những tháo thứ tại Giuđêa do những kẻ gây chiến. Ông nói về những kẻ như phái Quá Khích, những kẻ không quản hy sinh tính mạng, cũng không quản giết bà con, người thân, nếu hy vọng đạt tới chiến thắng. Chúa Giêsu nói ‘có những người tuyên bố mình là những người lãnh đạo được Thiên Chúa sai’. Họ tin vào chiến tranh, ám sát, giết chóc; đường lối của họ chỉ làm con người càng ngày càng xa Thiên Chúa... Chúa nói đường lối của tôi là đường lối hòa bình, yêu đương và sự sống; càng đi càng gần Thiên Chúa. Chúa quả quyết. Người đến để con người có sự sống và sống tràn đầy. Biết Chúa Giêsu, biết Người là ai, biết Người nói gì, là có sự sống và sống tràn đầy. Một lính Rôma mất hết tinh thần, không còn chí khí, đến Julius Caesar xin phép tự tử. Nhìn người lính, Julius nói ‘này, anh đã không bao giờ thực sự sống?’. Khi sống theo lối sống của mình, cuộc sống thật buồn thảm, mất nhuệ khí. Bước đi với Chúa Giêsu, sẽ thấy sức sống mới, dồi dào. Chỉ khi sống với Chúa Giêsu cuộc đời trở nên đáng sống và sống ý nghĩa. [7]

4.Mục tử thật, mục tử giả: đó là những mục tử trung thành hoặc bất trung (10:11-15)

4.1.Người mục tử phải tuyệt đối chu toàn trách nhiệm về đoàn chiên của mình

Nếu có gì xẩy ra cho đoàn chiên, anh phải có chứng cớ cho biết không phải lỗi tại anh. Amốt kể về người mục tử đánh tháo hai cẳng hay một phần tai con chiên từ miệng sư tử (Am 3:12). Luật nói ‘nếu bị lang sói cấu xé, phải đem bằng chứng về’ (Ed 22:13). Đavít kể với Saul là khi còn chăn chiên cho bố, ông đã vật lộn với sư tử và gấu (1Sm 17:34-36). Isaia nói về đám mục tử gọi nhau đến để đấu với sư tử (31,4). Quả rất tự nhiên đối với người mục tử, là phải liều mạng để bênh vực đoàn chiên. Dr W.M.Thomson, trong The Land and the Book, nói ‘tôi thích thú nghe về những truyện mục tử đánh nhau dữ dội với thú rừng. Nhất là với trộm cướp, chủ chăn thường thà chết để bênh vực chiên. Tôi biết nhiều trường hợp, mà một vào mùa xuân năm ngoái. Giữa Tiberias và Tabor, chủ chiên, thay vì chạy trốn, đã chiến đấu với bọn cướp ba tên Bedawin cho đến khi bị chúng dùng khanjars đánh chết, chặt từng mảnh, giữa đoàn chiên’. Mục tử thật không hề do dự liều mình, dầu có chết vì đoàn chiên.[8]

4.2.Trái lại, có những chủ chăn bất trung

Mục tử thật, được sinh ra vì công việc của mình. Ông được sai đi với đoàn chiên vừa khi ông lớn đủ; chiên thành bạn và những kẻ cùng đi, nên người chủ chăn tự nhiên nghĩ về chiên trước khi nghĩ đến mình. Còn chủ chăn giả thì nhận công việc không phải được gọi mà chỉ như phương tiện để kiếm tiền. Họ không có ý niệm về sự cao thượng, trách nhiệm trong công việc, họ chỉ là những người thuê. Chó sói thường đe dọa cho đoàn chiên. Chúa Giêsu nói với các môn đệ Người sai họ đi như chiên giữa chó sói (Mt 10:16). Phaolô cảnh giác các đầu mục tại Êphêsô là chó sói sẽ đến, không để chiên yên (Cv 20:29). Nếu chó sói tấn công, mục tử giả sẽ bỏ chạy. Dacaria nói đặc tính của mục tử giả là không quy tụ chiên rải rác về (11:16). Tại Ecclefechan, cộng đoàn bất đồng với mục sư của họ, tai hại là về lương bổng. Cha ông Carlyle là người am hiểu, nghe truyện, nổi nóng, đề nghị ‘hãy trả lương cho mục sư và để ông ta đi’. Chúa Giêsu muốn nói là người chỉ làm để được thưởng thì chỉ nghĩ đến tiền nong; người làm vì tình yêu thì thường nghĩ đến những người họ phục vụ. Chúa Giêsu là chủ chăn tốt, thương yêu chiên đến nỗi sẵn sàng liều mạng để chiên được an toàn. [9]

II.CHIA SẺ TIN MỪNG

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “cửa chuồng chiên”, cho nên trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem tại sao Chúa Giêsu lại ví mình là cửa chuồng chiên.

Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đề cập đến hai loại chuồng chiên. Tại các làng mạc và thị trấn, có những đàn chiên cộng đồng, tất cả các bầy chiên tại địa phương đó đều được nhốt chung khi chúng trở về buổi tối. Các chuồng chiên ấy được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng đến mùa nắng ấm, khi chiên được thả trên núi, đêm đến không lùa về làng, thì chúng được nhốt trong các chuồng chiên ngoài sườn đồi. Các chuồng chiên trên sườn núi này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa rả gì cả. Đêm đến người chăn chiên nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào, không có chiên nào ra vào được, trừ phi nó bước qua anh ta.

Và cũng trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nêu rõ hai hình ảnh trái ngược: mục tử và kẻ trộm. Đâu là tiêu chuẩn để có thể nhận ra khuôn mặt của hai hạng người đó ?

Tùy thái độ đối với đoàn chiên, hai hạng người đó sẽ lộ nguyên hình. Tự bản chất, tên trộm bao giờ cũng rình mò xâm phạm đến của cải và tính mạng người khác. Bất chấp luật pháp, “kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.” (Ga 10:10)

Trái lại, mục tử đích thực không những tôn trọng công lý, mà còn hy sinh bản thân vì người khác. Họ hy sinh tất cả cho hạnh phúc tha nhân. Có nhìn thấy mục tử chăn chiên trên đồi Palestine, mới thấy họ hy sinh cho đoàn chiên tới mức nào. Họ mất ngủ, mệt mỏi đứng dựa trên gậy, theo dõi từng động thái của đàn chiên. Tối đến, sau khi lùa đàn chiên vào chuồng, họ nằm chắn ngang bực cửa để bảo vệ đoàn chiên khỏi thú dữ. Mục tử như một chiếc cửa mở ra cho chiên ra vào và che chở đoàn chiên khỏi thú dữ sát hại. Có được bảo vệ an toàn như thế, đoàn chiên mới “sống và sống dồi dào.” (Ga 10:10)

Đức Giêsu là mục tử tốt lành, như trong TV 23 đã diễn tả

"Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên" (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Kitô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc.

Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất quan trọng, cần sự cộng tác đắc lực của gia đình cũng như giáo xứ. Quả thực hạt giống thiên triệu là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành các tông đồ tương lai cho Nước Trời.

Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chăn.

Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài. Xin ban cho chúng con những chủ chăn nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”. Amen

Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy


[1] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.106

[2] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.106

[3] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.107

[4] In the Steps of the Master trg.154-155

[5] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.107

[6] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.108

[7] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.108

[8] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.110

[9] Lm. Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo Chúa kitô, Quyển hai, tập hai, trg.110